luật. Vì thế, rất cần thiết phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến quan hệ ứng xử và cách giáo dục của cha mẹ đối với con cái trong bối cảnh hiện nay.
Ba là, con cái thiếu chính kiến, lệ thuộc vào cha mẹ; quá nặng nề về lễ nghi trong gia đình, dòng họ.
Hiện nay, trong một số gia đình vùng ĐBSH, con cái do quá coi trọng chữ “hiếu”, luôn muốn làm hài lòng cha mẹ và đáp ứng mọi nguyện vọng để cha mẹ được vui, dẫn tới lệ thuộc vào cha mẹ, sống thiếu chính kiến, không dám nói lên quan điểm sống, suy nghĩ, mong muốn của mình, đôi khi hy sinh cả hạnh phúc bản thân vì không muốn làm trái lời cha mẹ. Thực tế đã có những người con trong gia đình vì không muốn làm phật ý cha mẹ mà phải bỏ người mình yêu để lấy người cha mẹ chọn; bỏ vợ đi lấy người khác vì vợ không đẻ được con trai theo yêu cầu của cha mẹ hoặc do có mâu thuẫn với cha mẹ ... Có những người con biết cha mẹ sai nhưng không những không can ngăn, khuyên nhủ để cha mẹ hiểu mà tiếp tục dẫm lên sai lầm vì nghe theo lời của cha mẹ; hay có những gia đình, con cái kinh tế khó khăn nhưng sẵn sàng vay nợ để có tiền tổ chức tang ma, giỗ chạp hay xây mộ cho cha mẹ, coi đó là một cách báo hiếu với cha mẹ. Theo khảo sát của tác giả luận án khi đưa ra câu hỏi: Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử của con cái đối với cha mẹ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây? Thì có 31.5% người dân trả lời “Con cái bao che cho cha mẹ cả những việc làm sai trái”. Điều này cho thấy, giữ gìn đạo hiếu với cha mẹ là hành động có ý nghĩa rất thiêng liêng, nhưng biểu hiện đạo hiếu sao cho phù hợp để đảm bảo hạnh phúc gia đình và sự phát triển của xã hội thì đòi hỏi con cái cần phải hiểu thật sự thấu đáo về giá trị của đức “hiếu” và tránh những biểu hiện lệch lạc, mang tính tiêu cực.
3.2.2. Trong quan hệ giữa vợ và chồng
3.2.2.1. Ảnh hưởng tích cực
Thứ nhất, thể hiện thông qua sự gắn bó, thủy chung
Gắn bó, thủy chung là chuẩn mực đạo đức đặc trưng cơ bản của quan hệ vợ chồng đã được ĐĐNG khẳng định trong tư tưởng “tam cương”, “tam tòng,
“tứ đức”, cũng là một tiêu chí ứng xử cơ bản của quan hệ vợ chồng được quy định trong Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề ra (Phụ lục 3). Trong quan hệ vợ chồng, sự gắn bó thủy chung chính là cơ sở duy trì sự tồn tại và bình yên của mỗi gia đình. Đây là giá trị đạo đức và truyền thống văn hóa tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng người Việt mà hiện nay các gia đình ĐBSH vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc. Trong cuộc khảo sát người dân ở 6 tỉnh ĐBSH (2017) của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, khi được hỏi về “những phẩm chất đạo đức cần có của gia đình hiện nay?” thì có tới 91,2% người trả lời cho rằng “Vợ chồng tình nghĩa, thủy chung” là một phẩm chất đạo đức cần có [88, tr.92]. Cũng về vấn đề này, trong một cuộc điều tra của tác giả Lê Ngọc Văn khi khảo sát người dân vùng ĐBSH, cho thấy: Quan điểm về “Vợ chồng chung thủy” là một giá trị gia đình, một phẩm chất đạo đức được đánh giá rất cao, “hầu như được bảo lưu hoàn toàn so với truyền thống”, với 96% người dân lựa chọn. Mặc dù, với những đối tượng khảo sát khác nhau về độ tuổi, về trình độ học vấn, về mức sống… nhưng quan điểm về “Vợ chồng chung thủy” vẫn mang tính tương đồng cao (giao động từ 94% đến 99%) [114, tr.115]. Còn trong khảo sát của tác giả luận án, khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì 94.5% người trả lời khẳng định “Vợ chồng gắn bó, coi trọng thủy chung” (phụ lục 5.6). Từ các số liệu này cho thấy, chuẩn mực về sự thủy chung gắn bó trong quan hệ vợ chồng của Nho giáo cho đến nay vẫn được người dân vùng ĐBSH đánh giá rất cao và lưu giữ trong quan hệ gia đình. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng GĐVH hiện nay, khi đứng trước sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, những yếu tố tiêu cực của lối sống phương Tây du nhập, làm cho sự bền vững của hôn nhân và gia đình ngày càng bị đe dọa - thể hiện thông qua tỷ lệ các cặp vợ chồng ly hôn ngày càng tăng nhanh (đặc biệt ở các cặp vợ chồng trẻ) mà trong đó nguyên nhân cơ bản là do tình trạng ngoại tình (chiếm 25,9% trong tổng số 6 nguyên nhân được thống kê) [96, tr.105].
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Thức Ảnh Hưởng Của Đạo Đức Nho Giáo Đến Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa
- Đặc Điểm Gia Đình Vùng Đồng Bằng Sông Hồng - Yếu Tố Tác Động Trực Tiếp Đến Ảnh Hưởng Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với Xây Dựng Gia Đình Văn
- Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - 12
- Một Số Vấn Đề Đặt Ra Từ Ảnh Hưởng Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Ở Vùng Đồng Bằng Sông Hồng Hiện Nay
- Bất Cập Giữa Yêu Cầu Phát Triển Kinh Tế, Văn Hóa Làm Tiền Đề Cho Việc Phát Huy Ảnh Hưởng Tích Cực, Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Đạo Đức
- Quan Điểm Cơ Bản Nhằm Phát Huy Ảnh Hưởng Tích Cực Và Hạn Chế Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Đạo Đức Nho Giáo Đối Với Xây Dựng Gia Đình Văn Hóa Vùng
Xem toàn bộ 205 trang tài liệu này.
Thứ hai, thể hiện thông qua sự quan tâm, chia sẻ
Tình yêu thương, sự quan tâm, chia sẻ giữa hai vợ chồng thể hiện trước hết ở sự chăm sóc nhau trong cuộc sống thường ngày, từ những việc rất nhỏ như chăm lo miếng cơm manh áo hay những lúc ốm đau bệnh tật, mà thực tế cho thấy sự quan tâm chăm sóc này không ai có thể thay thế được (“Con chăm cha không bằng bà chăm ông”). Tình yêu đó còn thể hiện ở sự đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt qua những khó khăn thử thách của cuộc sống với tinh thần “thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, vượt qua những cám dỗ vật chất “Chồng em áo rách em thương, chồng người áo gấm xông hương mặc người ” để giữ gìn hạnh phúc. Điều này thể hiện rất rõ trong cuộc sống vợ chồng các gia đình vùng ĐBSH. Trong khảo sát của tác giả luận án, khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì 89% người trả lời cho rằng: “Vợ chồng quan tâm, chăm sóc nhau” và 72.3% người trả lời khẳng định “Vợ chồng chia sẻ với nhau các vấn đề trong cuộc sống” (phụ lục 5.6). Đặc biệt ở các vùng đô thị như thủ đô Hà Nội, tưởng chừng do sự tác động mặt trái của nền KTTT, với lối sống đô thị hóa sẽ làm cho các cặp vợ chồng sống lạnh nhạt với nhau, nhưng qua khảo sát hơn một nghìn người dân ở Hà Nội “Nhận định về mối quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình” cho thấy: Hầu hết các cặp vợ chồng đều có chung quan điểm về sự “quan tâm, chia sẻ”, với phương án trả lời “Phần lớn là đúng” thì có tới 83,4% người trả lời cho rằng vợ chồng thường “lắng nghe những khó khăn của nhau”, 80% người cho biết: vợ/chồng thường nói cho nhau biết về những khó khăn và 84,4% cho rằng: những mối quan tâm chung của họ luôn được vợ/chồng chia sẻ [54, tr.247]. Đây là biểu hiện rất tích cực của quan hệ vợ chồng trong xã hội hiện đại, góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình.
Thứ ba, thể hiện thông qua sự hòa thuận, giữ gìn yên ấm gia đình
“Chồng giận thì vợ bớt lời; Cơm sôi bớt lửa cả đời không khê” đã trở thành lời dăn dạy của ông cha bao đời đối với con cháu để giữ gìn yên ấm, hạnh phúc gia đình. Đây cũng là quan điểm thể hiện rõ sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với quan hệ vợ chồng - sự nhường nhịn lẫn nhau trong cuộc sống - một
chuẩn mực đạo đức không thể thiếu để giữ gìn hòa khí, bình yên và sự bền vững của gia đình. Thông qua số liệu khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì có 62.5% số người trả lời cho rằng “Vợ chồng nhường nhịn nhau, giữ gìn êm ấm gia đình” (phụ lục 5.6). Số liệu này cho thấy, so với chuẩn mực đạo đức “chung thủy” và sự “yêu thương chia sẻ” thì chuẩn mực về sự “nhường nhịn” trong quan hệ vợ chồng hiện nay không phải là lựa chọn chiếm ưu thế, nhưng qua đây cũng cho thấy, giá trị về sự nhường nhịn để giữ gìn êm ấm gia đình trong quan hệ vợ chồng vẫn được nhiều người dân coi trọng và gìn giữ, đặc biệt là ở những người cao tuổi và người dân sống ở vùng nông thôn. Nhường nhịn không có nghĩa là phục tùng, tuân lệnh và hy sinh, mà nó là biểu hiện của tình yêu thương, sự thấu hiểu và tôn trọng nhau vì niềm vui, hạnh phúc và sự bền vững của gia đình. Do đó “nhường nhịn lẫn nhau” giữa vợ và chồng cũng là một giá trị đạo đức không thể thiếu góp phần xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
3.2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Một là, thể hiện ở sự tuyệt đối hóa vai trò của người chồng
Trong xã hội hiện nay, quyền dân chủ, bình đẳng giữa vợ và chồng được xã hội coi trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo nên trong quan hệ vợ chồng một số gia đình vùng ĐBSH vẫn còn tồn tại tư tưởng “phu xướng phụ tùy”, vợ phải phục tùng chồng một cách vô điều kiện. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng bạo lực gia đình đối với người phụ nữ. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chỉ trong vòng bốn năm gần đây, cả nước đã có 178.847 vụ bạo lực gia đình, thì riêng bạo lực đối với phụ nữ là 106.520 vụ [97, tr.85]. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực gia đình ở các tỉnh ĐBSH cao gần nhất cả nước (sau Đông Nam Bộ), tiêu biểu như ở Ninh Bình, trong số 935 vụ bạo lực gia đình xảy ra thì có tới 851 vụ nạn nhân là phụ nữ [75, tr.4], chiếm 91%. Điều này cho thấy quyền của người phụ nữ trong gia đình ĐBSH còn bị vi phạm nghiêm trọng, xuất phát từ sự gia trưởng và tuyệt đối hóa vai trò của người chồng. Trong kết quả khảo sát của tác
giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì có 23.3% người dân khẳng định “Vợ phải tuyệt đối phục tùng và làm theo ý kiến của chồng”, 36.3% người dân cho rằng “Chồng có hành vi bạo lực nếu vợ không nghe lời”, đặc biệt 76.8% người khẳng định “Chồng thường áp đặt ý kiến của mình đối với vợ” (phụ lục 5.6). Sự thiếu bình đẳng trong quan hệ vợ chồng còn thể hiện thông qua vai trò quyết định các vấn đề của gia đình. Trong một khảo sát người dân ở Thái Bình của tác giả Lê Ngọc Văn, khi được hỏi về quyền quyết định giữa vợ và chồng trong gia đình thì có 2,6% nam giới trả lời “Chồng quyết định hoàn toàn”; 62,5% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía chồng”; chỉ có 0,9% trả lời “Vợ quyết định hoàn toàn”; 4,3% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía vợ” và 29,7% trả lời “Hai vợ chồng ngang nhau”; số liệu khảo sát nữ giới thì 5,2% nữ giới khi được hỏi trả lời “Chồng quyết định hoàn toàn”; 41,7% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía chồng”; 5,2% trả lời “Vợ quyết định hoàn toàn”; 10,1% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía vợ” và 37,9% trả lời “Hai vợ chồng ngang nhau” [114, tr.226]. Cũng trong cuộc khảo sát này, khi được hỏi về khuân mẫu “Vợ phải nghe lời chồng” thì 33,6% nam giới trả lời “Đúng hoàn toàn”; 55,2% trả lời “Đúng một phần”, 11,2% trả lời “Không đúng”; về phía nữ giới thì 30,2% trả lời “Đúng hoàn toàn”; 58,9% trả lời “Đúng một phần”, 10,9% trả lời “Không đúng” [114, tr.228]. Thông qua kết quả khảo sát này cho thấy: Mặc dù pháp luật khẳng định và bảo vệ quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, nhưng trong thực tế, quyền quyết định cuối cùng các vấn đề trong nhiều gia đình người dân vùng ĐBSH vẫn thuộc về người chồng, “vợ phải nghe lời chồng” vẫn là khuôn mẫu ứng xử trong nhiều gia đình. Đây là ảnh hưởng mang tính tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến quan hệ giữa chồng và vợ trong gia đình người dân ĐBSH hiện nay.
Hai là, thể hiện ở sự ràng buộc người vợ trong khuôn mẫu định sẵn
Cùng với việc tuyệt đối hóa vai trò của người đàn ông trong gia đình thì nhiều người dân vùng ĐBSH vẫn giữ những quan điểm và lối sống mang tính khắt khe và áp đặt đối với người phụ nữ, thể hiện rõ tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương trong Vùng hiện nay. Nguyên nhân tồn tại tình trạng này là bởi vì:
Do ảnh hưởng của tư tưởng “tứ đức” - “nữ nội nam ngoại”, nên đa số người dân thường ủng hộ cho sự nghiệp, công danh thăng tiến của người đàn ông, họ dễ dàng chấp nhập và coi là chuyện bình thường với những người đàn ông vì công việc xã hội mà thường xuyên vắng nhà, về muộn, đi công tác dài ngày và không có thời gian chăm sóc vợ con, họ gọi đó là người đàn ông có chí tiến thủ. Nhưng với người phụ nữ vì công việc xã hội mà thường xuyên vắng nhà, đi sớm về muộn, không có nhiều thời gian chăm sóc chồng con…, thì bị coi là người vợ, người mẹ “vô trách nhiệm”. Trong gia đình, đa số người chồng chỉ muốn vợ an phận thủ thường, chăm lo tốt việc gia đình, nuôi dạy con cái, họ tỏ ra khó chịu khi vợ bận rộn với công việc xã hội. Nhiều mâu thuẫn, bạo lực trong gia đình nảy sinh từ việc người chồng không đồng tình, thiếu chia sẻ với công việc xã hội của vợ. Trong một phỏng vấn sâu người dân (nữ, 34 tuổi, trí thức, Hà Nội), chị khẳng định: “Em cho rằng bình đẳng giới trong ứng xử vợ - chồng liên quan đến việc làm ngoài xã hội là không bao giờ đạt được. Chẳng hạn như gia đình em, cả hai vợ chồng em đều đang làm nghiên cứu sinh, nhưng bây giờ em có khả năng bảo vệ trước anh ấy. Thế là vừa rồi ông chú anh ấy gọi điện ra hỏi thăm và nói phải dành thời gian cho chồng học tập. Chú không nói thẳng ra nhưng em hiểu chú có ý bảo em không nên bảo vệ tiến sĩ trước chồng. Bản thân chồng em thỉnh thoảng cũng nói, em học gì thì học nhưng vẫn phải quán xuyến mọi việc gia đình, phụ nữ không cần học nhiều… Em nghĩ, nếu em bảo vệ luận án tiến sĩ trước anh ấy thì thế nào cũng có chuyện”; một người dân khác (nữ, 35 tuổi, trí thức, Hà Nội) khẳng định: “Chồng em thường xuyên đi làm về muộn thì được xem là chuyện bình thường. Nhưng nếu em đi làm về muộn là anh ấy không nói gì, mặt cứ nặng ra” [31, tr.128]. Còn trong khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa vợ và chồng trong trong gia đình hiện nay biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì vẫn còn 30% người dân cho rằng: “Chồng chỉ lo việc xã hội, việc trong gia đình là trách nhiệm của vợ” (phụ lục 5.6). Chính vì nhiều phụ nữ không được chồng ủng hộ, chia sẻ trong công việc xã hội nên ngoài những áp
lực, vất vả, nặng nhọc do công việc xã hội mang lại, về đến nhà họ lại phải làm đủ các công việc gia đình, từ nội trợ đến chăm sóc cha mẹ già, chồng con… Điều này làm cho người phụ nữ phải chịu nhiều áp lực trong cuộc sống và rất khó để phát huy được năng lực của mình trong hoạt động xã hội.
Cho đến nay, trong GĐ vùng ĐBSH, phụ nữ vẫn là người đảm nhiệm hầu hết các công việc gia đình, đặc biệt là việc nội trợ và chăm sóc con cái, mặc dù mức độ thực hiện có khác nhau, tùy thuộc vào đặc trưng từng gia đình, từng vùng (thành thị hay nông thôn). Gánh nặng công việc gia đình đã khiến cho người phụ nữ phải chịu áp lực rất lớn về thời gian, điều đó làm hạn chế cơ hội nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, đồng thời khó có điều kiện để nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, cũng như tham gia vào công việc xã hội, đặc biệt ở các vị trí lãnh đạo quản lý chủ chốt. Trong khi công việc gia đình có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc sống con người, nhưng phần đông người dân (đặc biệt nam giới) vẫn coi công việc này là việc nhỏ, việc không quan trọng, không tạo ra giá trị kinh tế, gắn liền với “thiên chức”, trách nhiệm của phụ nữ. Vì thế, phụ nữ với trọng trách là người đảm nhiệm chính công việc gia đình nhưng địa vị kinh tế của họ không được thừa nhận. Đây không chỉ thể hiện sự bất bình đẳng giới trong phân công công việc xã hội, hạn chế khả năng tham gia công việc xã hội của người phụ nữ, mà còn là nguồn gốc dẫn đến sự bất bình đẳng giữa vợ - chồng trong GĐ và tình trạng bạo lực gia đình đối với người phụ nữ.
Do bản thân người phụ nữ luôn tồn tại tư tưởng “nữ nhi an phận thủ thường” - đây là rào cản lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính hạn chế khả năng phát triển của người phụ nữ trong xã hội. Tư tưởng đạo đức Nho giáo với việc đề cao trách nhiệm của người phụ nữ trong quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc cha mẹ già, chồng con…, đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý, thói quen, cách sống của người phụ nữ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì vậy, mặc dù hiện nay, xã hội đã bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, cũng có những gia đình tạo điều kiện để người phụ nữ tham gia vào công việc xã hội. Nhưng chính bản thân người phụ nữ chưa thoát ra khỏi tư tưởng “công,
dung, ngôn, hạnh” xưa, chưa mạnh dạn sống, làm việc và đấu tranh để khẳng định vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Bản thân người phụ nữ luôn tự hài lòng với công việc nội trợ, chăm sóc gia đình; họ coi đó là thiên chức, là niềm hạnh phúc; và thành công của chồng con chính là thành công của họ, với tư tưởng “của chồng công vợ”, “gái có công chồng chẳng phụ”… Vì thế, nhiều phụ nữ tình nguyện nghỉ việc xã hội ở nhà chăm sóc GĐ khi bắt đầu lấy chồng, sinh con; khi gia đình có việc cần giải quyết thì họ cũng là người đầu tiên tình nguyện xin nghỉ việc ngoài xã hội để ở nhà giải quyết việc gia đình. Trong một khảo sát người dân ở ĐBSH cho thấy: 44,9% nữ giới sẽ chủ động xin nghỉ việc để lo việc gia đình khi cần thiết, trong khi số này ở nam giới chỉ có 22,1% [31, tr.132].
Có thể nói, do ảnh hưởng của tư tưởng “tam cương”, “tam tòng”, “tứ đức” của Nho giáo đã làm hạn chế quyền dân chủ, bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình vùng ĐBSH, chưa phát huy được hết khả năng, sự năng động, sáng tạo và vai trò của họ trong hoạt động xã hội.
3.2.3. Trong quan hệ giữa anh, chị, em
3.2.3.1. Ảnh hưởng tích cực
Thứ nhất, thể hiện trong sự hòa thuận, thương yêu, đoàn kết
Trong quan hệ huyết thống giữa anh và em, hòa thuận được Nho giáo đề cao như là yêu cầu và chuẩn mực hàng đầu. Hòa thuận đòi hỏi anh chị em phải thương yêu, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; đồng thời hòa thuận cũng là kết quả của sự thương yêu, đoàn kết và giúp đỡ giữa anh em trong gia đình. Chuẩn mực đạo đức này hiện nay vẫn còn thể hiện đậm nét trong gia đình ĐBSH, minh chứng thông qua kết quả điều tra khảo sát thực tiễn của nhiều đề tài nghiên cứu khoa học như: Năm 2017, thông qua kết quả khảo sát 6 tỉnh vùng ĐBSH của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy về quan hệ anh - em trong gia đình, cho thấy: 87,7% người dân ĐBSH khi được hỏi cho rằng “anh, chị, em yêu thương, hòa thuận, gắn bó” là phẩm chất đạo đức cần có trong GĐ hiện nay, 82,9% người dân khẳng định cần duy trì và phát huy tình cảm gắn bó keo sơn trong quan hệ anh em, tiếp đó là sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau (76,9%), và thường xuyên thăm hỏi, giúp đỡ nhau về vật chất [88, tr.83]. Thông qua kết quả khảo sát này cho