Yếu tố tự vấn trong Di cảo thơ Chế Lan Viên - 10

Nào con nào đã dám nhởn nhơ


Thế mà anh muốn đưa tay hái trời không nhọc sức Ngỡ bước chân lên thì thi tứ sẵn chờ

(Thơ bình phương, đời lập phương)


Vẫn biết nghệ sĩ có hạnh phúc là được làm một nghề lao động tự do, sáng tạo theo cảm hứng. Nhưng không phải vì thế mà có thể cho phép mình an nhàn. Nghệ sĩ - nhà thơ - ngoài việc đưa tâm hồn ra hứng nhận nỗi đau của cuộc đời, nếm trải những thất bại và cay đắng còn phải lao tâm khổ tứ, làm việc cật lực, lấy đêm làm ngày :

Ngọn đèn thức cho trang giấy ngủ Khi ta ngủ rồi, trang giấy vẫn còn mơ

Nó làm việc với đáy bể với sao trời ai biết được? Khi cỏ đọng sương trời thì thơ đọng những câu thơ

(Trang giấy)


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Lúc nào cũng sẵn sàng tâm thế bởi có khi tứ thơ đến bất chợt:

Hãy giương cung bởi bất thần chim đến

Yếu tố tự vấn trong Di cảo thơ Chế Lan Viên - 10


Say đắm, mộng mơ thì giữa trưa bắt được ánh trăng rằm Hãy trực sẵn bên cây bởi bất thần trái chín

Chế Lan Viên đã nói rất chính xác về lao động của nhà thơ khi ông ví họ như những nông dân cần mẫn, một nắng hai sương, thức khuya dậy sớm để cày vào trang giấy trắng, như con ong bay đi kiếm mật phía chân trời, tõ lóc:

Khi trong tổ mẹ con chim còn ngái ngủ Sông bên ngoài còn chậm chạp dòng trôi Lá còn giọt sương đêm trong mắt nhỏ

(Hồi kí bên trang viết)

như con vạc ăn khuya giữa dòng đêm vắng lặng. Thật âm thầm, nhẫn nại mà đơn độc!

Ýt ai nói về nỗi nhọc nhằn của lao động sáng tạo nghệ thuật cụ thể như Chế Lan Viên:

Tay cầm kim, tay cầm sợi chỉ

Vừa chạy vừa xâu không một phút dừng Chạy một đời rụng hết cả thanh xuân.

(Xâu kim)

Cứ hình dung một người vừa chạy vừa phải tay kim tay chỉ luồn kim ta

đã thấy hết cái khó khăn, cực nhọc rồi. Làm thơ là thế. Vậy mà có khi Chỉ sắp lọt rồi. Kim bỗng lùi xa, có khi anh chẳng thể nào đặt chân được lên bờ bên kia trang giấy. Thâu đêm suốt sáng đấy mà trước mặt mình vẫn chói lòa trang giấy trắng.

Việc làm thơ đầy rẫy những gian truân, vất vả. Nó đòi hỏi ở nhà thơ không phải chỉ là tài năng mà còn là sự cần mẫn, chăm chỉ. Chế Lan Viên đã cần mẫn cày vào thửa ruộng thơ suốt cả đời mình. «ng tâm sự:

Phải đâu tôi quá nhác lười

Khi gà le te đầu hôm, gà le te cuối xóm Tôi đã dậy, cày vào trang giấy trắng Ngọn đèn thơ đối chọi ánh sao mai.

(Hồi kí bên trang viết)

Cũng ít ai nói về sự bất lực của mình thành thật và dũng cảm như Chế Lan Viên:

Tôi tiếp cận trang giấy ngày mười sáu tuổi Bây giờ sáu ba

Cái trang mơ ớc của một thời chưa với tới.

Dần xa

Để bơ vơ ngòi bút của tôi qua Nhìn trang giấy biết mình hữu hạn

(Hồi kí bên trang viết)

Đây không phải là nỗi bi quan mà là nỗi đau đớn cao cả của một người luôn có hoài bão vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật. Cái trang mơ ước của một thời bài thơ cuộc đời ở Chế Lan Viên chính là cái tác phẩm mà Nam Cao

đã có lần mơ ớc: Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu. Và quyển sách ấy theo Nam Cao phải là một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người; là nỗi đau của sự từng trải: biết mình sức lực bé mà ham nói điều vĩ đại, biết người có mười mà tên tuổi đến mười mươi. Chế Lan Viên đòi hỏi người ta phải coi thơ là một nghề: ba vạn sáu ngàn nghề, ta phải kể nghề thơ. Nhưng qua cuộc đời lao động nghệ thuật của Chế Lan Viên, tôi cho rằng với ông thơ còn là một nghiệp:

Oan khiên oan khuất

Ta chạy một đời không dứt


Vẫn toi công

(Xâu kim)


Phải chăng trên thế giới này, lao động của các nhà thơ đều gian truân như thế? Đọc thơ Chế Lan Viên, ta nhớ đến những dòng thơ của Raxun Gamzatov trong Dagestan của tôi:

Tôi như người nô lệ của thơ mình

Đổ mồ hôi suốt ngày, còng lưng phục vụ Nhưng những câu thơ dường như chưa thấy đủ Nửa đêm đứng dậy, chẳng cho yên.

Tôi như người kéo xe. Bánh xe lăn bất tận, Hai càng xe luôn thúc ở hai sườn

Mà hàng hóa chở mỗi ngày thêm nặng, Suốt một đời trói buộc chẳng hề buông

Nếu người xưa thường sợ không gian thì các thi sĩ thời nay lại bị ám

ảnh bởi thời gian. Vì thời gian, Xuân Diệu đã có lúc ngông cuồng : muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại. Vì thời gian, Hàn Mặc Tử đã có lúc hốt hoảng chắp tay cầu nguyện cho các vì tinh tú đừng luân chuyển nữa. Còn Chế Lan Viên mới 17 tuổi đã than thở đến não lòng:

Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa Với tháng ngày biền biệt đuổi nhau trôi

(Những sợi tơ lòng, 71)

Về cuối đời, nhìn thấy rõ dòng thời gian nước xiết, thấy cái hữu hạn của đời người, Chế Lan Viên đã có một phương thức sống chạy đua với thời gian. Ông nói với mình và cũng là nói với các nhà thơ:

Gió thổi mây bay bất trắc

Lúc nào mà không tử biệt sinh li Lúc nào anh cũng có thể trở thành

Hàn Mặc Tử, Bích Khê Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt

(Thời gian nước xiết)

Nửa thế kỉ cầm bút, với mệnh lệnh thôi thúc: Viết nhanh lên!Nắng hết, chiều rồi!Viết đi, viết đi, viết viết”, Chế Lan Viên đ± để lại cho đời gần 1000 bài thơ. Điều đáng nói là trong số đó có 309 bài được ông viết trong Di cảo thơ vào hai năm 1987, 1988- có nghĩa là vào thời kì ông đã lâm bệnh hiểm nghèo, sức lực suy giảm. Có bài ông viết khi vừa đi thăm lò thiêu xác về, có bài viết ba hôm trước ngày lộn trái phổi ra để cắt u (chó thÝch cđa ChÕ Lan

Viên), có bài viết ngay sau ngày mổ... Chế Lan Viên, ông là một tấm gương về nghị lực phi thường, ý chí kiên cường và lòng say mê nghề nghiệp.

Những năm cuối đời, ông tranh thủ làm thơ để chống chọi với dòng thời gian nước xiết:

Gió thổi mây bay bất trắc Lúc nào không tử biệt sinh ly

...Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt Viết đi!Viết đi!Viết!Viết

Thời gian nước xiết

Viết thêm!Viết nữa!Viết vào

(Thời gian nước xiết)

Cảm nhận được cái thời gian hữu hạn của đời mình, đau trước nỗi đau của số phận thi ca, những ngày cuối đời mình, Chế Lan Viên luôn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Từ tình cảm cộng đồng ồn ào, nhà thơ quay về cái tôi cụ thể, trực tiếp.

ë ¸nh sáng và phù sa, ông đã thể hiện thành công sự hân hoan, hạnh phúc khi được sống trong lòng dân, được nhân dân tin yêu. Với ông, cuộc sống của nhân dân chính là nguồn sáng tạo của thi ca. Ông ca ngợi sự trở về với nhân dân của mình:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

(Tiếng hát con tàu, 67)

Ông đã khát khao được xâm nhập thực tế chiến đấu và lao động của nhân dân. Ông muốn đặt chân đến hang cùng ngõ hẻm, đến những miền đất xa xôi của tổ quốc để tạo được những vị ngọt nồng ấm cho thơ. Chế Lan Viên

đã chính thức trở về với Đảng, với Bác, với nhân dân từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Khi bệnh tật đang đeo đẳng nơi ông, Chế Lan Viên nói đến chuyện trở về chính là muốn thu quân lại. Cuộc chiến đấu đã kết thúc, nhà thơ từ giã chiến trường và cũng là từ giã cõi đời. Nhà thơ buồn khi mình đang cận kề cái chết, muốn cống hiến nhiều cho cuộc đời nhưng chợt nhận ra đời mình đã sắp tối:

Thu quân lại

Đời anh sắp tối rồi Anh cần chống chọi Phải thu quân

...Anh như vị tướng già chiến bại

Cho đánh một trận còn không đánh nổi Thu về làm chi.

Khi ông yêu cầu cho tôi trở về với cành lauthì ta hiểu cái đích trở về của ông không còn là sự hòa nhập với cộng đồng mà là theo cái nghĩa xa lánh, ẩn náu. (156, 47)

Ông đã từng phủ nhận những thành tựu thơ mình giai đoạn trước cách mạng. Ông hiểu rằng thơ cũng phải biết xung trận như những người con ưu tú khác của dân tộc. Vậy mà sau này, nhìn nhận lại các sáng tác của mình giai

đoạn 1945-1975, có lúc ông lại có cảm giác là thơ mình có sự giả tạo. Và ông thấy thương thơ mình trong giai đoạn lịch sử ấy:

Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ


Nghĩ mà thương

(Sư)


Ông hiểu được thơ ông bấy giờ không thể thiếu vắng tiếng hét ở chiến hào, song trong sâu thẳm lòng mình, ông vẫn có chút buồn, chút trách móc. Có lẽ, bài Ai? Tôi! là lời trách móc nặng nề nhất với chặng đường thơ thời chống Mĩ của ông. Ông oán trách thơ mình đã kêu gọi, giục giã mọi người

xông ra chiến trận làm nên những cảnh đau thương chết chóc; để rồi lại càng băn khoăn dằn vặt mình hơn khi mình lại chẳng có nổi một câu, một bài thơ nào giúp họ sống qua những ngày buồn tủi chua cay sau cuộc chiến:

Người lính cần một câu thơ giải đáp với đời Tôi ú ớ

Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong Mà tôi xấu hổ

Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

Chắc hẳn, nhà thơ đã từng đọc đi đọc lại bài thơ này để suy ngẫm, tự vấn. Nhưng thật không dễ dàng để giải quyết những băn khoăn mang tầm thế kỷ ấy.

Cũng ở giai đoạn cuối đời, nằm trên giường bệnh, càng trăn trở về sự nghiệp của bản thân, Chế Lan Viên lại càng trở nên hoài nghi tính có ích của thơ ca với đời sống:

Những vết thương thành sẹo dày da chả giúp gì cho vết thương loét máu Vết thương dại dột, ngu đần chờ gì được ở cái khôn rành khôn sõi của châm ngôn

Khi đau ta tránh hết các thánh thần, danh nhân vĩ nhân đi nhé

Để vết thương tự hút hết máu mình, lành miệng đồng da non.

(Dạy đời)

Không có sự so sánh nào có thể chao chát hơn sự so sánh, ví von của tác giả trong Thời thượng:

Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng

Thiên chức của nhà thơ đã bị bóp méo. Bước sang những trang mới của lịch sử, nhà thơ là đối tượng không còn cần thiết, đáng bỏ đi.

Những trang viết trong Di cảo trĩu nặng nỗi suy tư của Chế Lan Viên. Nhà thơ gửi lại cho đời những tâm sự chân thành khi ông thấy rõ mình đã rất gần cuộc hành trình đi đến lò thiêu. Ông như muốn ngơp lỈn vào đáy sâu bể loài người, hòa nhập hết mình với cuộc đời để trăn trở, ngẫm suy chuyện đời và thâu tóm những cảm xúc bộn bề của mình vào trong thơ. Những suy tư đó của ông không phải không bộc lộ nhiều mâu thuẫn. Có những quan điểm của

ông ta đồng tình, lại có những quan điểm không phải bạn đọc nào cũng đón nhận. Nhưng chúng ta hoàn toàn thông cảm bởi một nhà thơ gần đất xa trời trong hoàn cảnh cuộc sống đang biến động mạnh mẽ thì có những bối rối về nhận thức là điều dễ được chấp nhận.

Có nhiều đóng góp cho cuộc đời và cho thơ nhưng Chế Lan Viên vẫn thấy chưa thỏa. Miệng huyệt gần kề nhưng ông vẫn canh cánh không yên bởi người đời, bởi chính cuộc sống, bởi chính bản thân ông vẫn chưa giải

đáp được:


Ta là ai? Về đâu? Hạt móc

Là ta chăng? Dòng sông là ta chăng? Tiếng khóc

Là ta chăng?

Vì sao lạc phương trời Là ta chăng?

Ta chưa kịp trả lời

Thì sông đã cuốn ta vào bóng tối

Cậu bé chơi tùng dinh vụt già trăm tuổi Câu hỏi thuở bé thơ, miệng huyệt trả lời

(Hỏi? Đáp)

Câu hỏi một lần nữa cất lên cho thấy khát vọng cao cả của Chế Lan Viên với đời, với thơ. Thời gian cuộc đời là bể thời gian vô tận, còn dòng thời

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/09/2023