Và tức giận:
(Buồn thi hỏng)
Đổi Tế thành Cao mà chó thế Kiện trông ra tiệp hỡi trời ơi
(Hỏng thi khoa Quý Mão 1903)
Sự ôn nhu đôn hậu và quân bình trong tình cảm vốn có của nhà nho dường như không thấy trong con người Tú Xương, đằng sau những bài thơ đả kích ta dễ thấy một tâm tính không mấy phóng khoáng và một tâm địa có phần hẹp hòi.
Khác với nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ, dù có thi hỏng thi rớt nhưng vẫn nuôi chí nam nhi và ý thức được phận mình trong xã hội, trời đất để kiên trì lập thân cho bằng được:
Có thể bạn quan tâm!
- Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 2
- Tú Xương Với Tư Cách Là Con Người Xã Hội
- Thái Độ Của Tú Xương Đối Với Minh Quân Lương Tướng
- Nhà Nho Phá Vỡ Sự Quân Bình Trong Cảm Xúc
- Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 7
- Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 8
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Nặng nề thay hai chữ “quân thân”
Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ
(Trên vì nước, dưới vì nhà)
nhưng với Tú Xương, tâm thế của người học hành thi cử dường như cũng khác, có dấu hiệu của một cá thể muốn vượt ra ngoài những quy tắc của khoa cử nho giáo đương thời.
2.1.5. Đối với thương nhân và những lề thói khác
Ở Tú Xương, thái độ với con buôn, những người làm thương mại có sự mâu thuẫn. Cuối thế kỉ XIX, đô thị hóa phát triển, hình thành tầng lớp thương nhân nhỏ. Đặc biệt, Nam Định quê hương ông lại là kinh đô thứ hai, là nơi phát triển nhất nhì thời đó. Cái phi nho của Tú Xương là thái độ với thương nhân. Ông không coi khinh, miệt thị tầng lớp này. Bố mẹ, vợ ông đều là những người buôn bán nhỏ, ông hết sức ca ngợi và biết ơn họ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng
(Thương vợ)
Tuy nhiên, Tú Xương lại “dị ứng” hoặc có thể chưa thích ứng với cách thức buôn bán mới, kiểu cò mồi, ngoại giao, coi khách hàng là thượng đế, đút lót... rất con buôn. Trong bối cảnh sinh hoạt thành thị sầm uất, nhộn nhịp, Tú Xương vẫn chú ý đến những đổi thay tiểu tiết, khó nhận biết nhất. Bài thơ Mồng hai tết viếng cô Ký thấm đẫm niềm cảm thương của nhà thơ về cái chết của cô gái trẻ, chê trách thái độ hờ hững của người chồng phụ bạc, nhưng đồng thời phê phán thái độ của người chồng- tiểu thương- coi trọng mối lợi nhuận của cửa hàng hơn là người vợ:
Cô Ký sao mà đã chết ngay? Ô hay, trời chẳng nể ông Tây! Gái tơ đi lấy làm hai họ
Năm mới vừa sang được một ngày. Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ, Ông chồng thương đến cái xe tay! Gớm gan cho những cô con gái Còn rủ rê nhau lấy các thầy!
(Mồng hai tết viếng cô Ký)
Cô là vợ hai của một ông Ký, mở hiệu xe tay, được chồng sai đi giao dịch với tên cẩm Tây để kiếm lợi. Nhưng cái chết đột ngột của cô không hề khiến ông chồng mảy may thương tiếc mà hắn chỉ thương cái xe tay từ nay không ai lo. Bài thơ thể hiện sự băng hoại đạo đức, dùng vợ làm phương tiện để kiếm tiền một cách vô liêm sỉ. Hình ảnh “cái chết” của cô Ký và hình ảnh “câu đối đỏ” ngày tết thành một cặp đối lập, tăng thêm tính chất bi kịch của cuộc đời con người.
Tú Xương tinh tường phát hiện những kiểu mồi chài, chèo kéo khách mới của đám thương nhân thành thị. Đây là kiểu làm ăn mới, coi khách hàng là thượng đế, vì lợi nhuận, họ có thể làm bất cứ điều gì, kể cả trái với thuần phong mĩ tục và trái với lẽ thường của nhân cách:
I. Nước buôn như chị mới ăn người
Chị thấy ai đâu chị cũng cười Chiều khách quá hơn nhà thổ ế Ðắt hàng như thể mớ tôm tươi Tiền hàng kẻ thiếu, mi thường đủ Giá gạo đầu năm, đấy vẫn mười
Thả quýt nhiều anh mong mắm ngấu Lên rừng mà hỏi chú đười ươi
II. Ai đấy ai ơi khéo hợm mình ! Giàu thì ai trọng, khó ai khinh
Thằng Ngô mất gánh, say câu chuyện Chú lái nghiêng thoi, mắc giọng tình Có khéo có khôn thì có của
Càng giàu càng trẻ lại càng xinh Xuống chân lên mặt ta đây nhỉ !
Chẳng biết rằng dơ dáng dạng hình
(Gái buôn)
Từ việc Tú Xương không thể hòa nhập với cách thức buôn bán mới, kéo theo một loạt hiện tượng phê phán mới xuất hiện. Ông nhìn ra rất nhiều hiện tượng mạo phạm với quy tắc nho gia: sư đi lọng, cô gái thị dân mặc váy dài, đội khăn to như tày rế, Mán ngồi xe....
Khăn là bác nọ to tày rế Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
Công đức tu hành sư có lọng Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe
(Năm mới)
Những sự kiện mà chỉ xã hội này mới có, lại được soi dưới hệ quy chiếu cũ, nên nó vừa “chân lý” lại vừa “thành kiến”. Những cái gọi là “lẽ phải thông thường”, hệ quả tất yếu của sự biến đổi xã hội, đã không được Tú Xương kịp thích ứng và chấp nhận, thế nên xuất hiện những lời đả kích và trào lộng chua cay nhưng đầy bất lực. Đây chính là những yếu tố mang tính thời đại mà chỉ đến xã hội này mới có. Và cũng chỉ có nhà nho thị dân mới được chứng kiến, mà cũng chỉ có với con mắt sắc sảo của Tú Xương mới nhận ra.
Trên đây là những thái độ, quan niệm, lối sống của Tú Xương trong buổi giao thời. Nhà nho thị dân này dường như đang dần bật ra khỏi những quan niệm cố hữu của nho giáo để ứng xử với xã hội, với con người mới.
2.2. Tú Xương với tư cách là tác giả văn học
Dựa vào tiêu chí mang tính chất hệ hình của văn học để xét những yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương.
2.2.1.Quan niệm và tư tưởng thẩm mỹ trong văn học
2.2.1.1. Cảm quan thời đại của Tú Xương:
Bối cảnh văn hóa buổi giao thời và đặc trưng môi trường đô thị hóa ở Nam Định tác động sâu sắc đến con người nho gia như Tú Xương. Sự va chạm giữa văn hóa cổ truyền với một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ cùng với tính chất đô thị hóa trong xã hội Phương Đông có sự khác biệt làm nên những đổi thay nhanh chóng, chắc chắn sẽ khiến tâm thế và tâm lý của con người mang những nét rất riêng. Với sự nhạy cảm vốn có, Tú Xương thấy được sự đổ vỡ của trật tự đời sống; tính áp đặt của cái chính thống; sự đảo lộn của các thang bảng giá trị; sự bất an, mất niềm tin của con người.
Những thay đổi căn bản từ bên trong thể hiện qua cái nhìn nhuốm màu bất lực của ông:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố, Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Keo cú người đâu như cứt sắt,
sự:
Tham lam chuyện thở những hơi đồng.
(Đất Vị Hoàng)
Tú Xương đã nhìn nhận những biến đổi của đất Vị Hoàng bằng cảm nhận thế
Trời kia xui khiến sông nên bãi Ai khéo xoay ra phố nửa làng
(Vị Hoàng hoài cổ)
Vị Hoàng là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưa có
sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắc xuất hiện thì sông Vị Thủy bị lấp dần. Vị Hoàng vốn là “nơi sang trọng, chốn nhiều quan”. Nhưng rồi biển dâu biến đổi, trong buổi giao thời hổ lốn dở Tây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lý sa sút, suy đồi, cái sự “phố nửa làng” thể hiện sự biến đổi và xáo trộn nhưng không thành một chỉnh thể toàn vẹn, nó khiến cho cuộc sống không mang màu sắc đặc trưng nông thôn, cũng không ra chốn thành thị đô hội. Vùng đất Vị Hoàng nửa tỉnh nửa quê, là cơ hội cho sự du nhập những lối sinh hoạt bát nháo trà trộn. Qua câu thơ ta thấy được sự xót xa của nhà thơ nhưng hoàn toàn bất lực, và qua lăng kính của cái nhìn đạo lý, ông chỉ có thể nêu lên những thói đời thoảng chút mỉa mai cay nghiệt.
Buổi đầu đô thị hóa đã tạo nên sự bát nháo trong các mối quan hệ. Đạo lý và các giá trị xã hội bị đảo lộn. Bắt đầu là tầng lớp nhà nho, những trí thức của thời đại đương thời, là rường cột tương lai của quốc gia hiện lên trong thơ Tú Xương với bộ dạng:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Bộ dạng “lôi thôi” đối lập hoàn toàn với vẻ cung kính đạo mạo của những bậc trí thức xưa. Hai câu thơ miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ đặc sắc. Trường thi không còn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào, khác nào cảnh họp chợ. Sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh.
Quan trường, giám thị, cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình biếm hoạ độc đáo này gợi tả lại cảnh hoàng hôn của chế độ phong kiến ở nước ta.
Tú Xương cũng nhìn ra được bản chất của những trí thức của xã hội. Không chú tâm vào cương thường đạo lý mà chỉ lo nỗi cờ bạc rong chơi:
Ông về đốc học đã bao lâu, Cờ bạc rong chơi rặt một màu Học trò chúng nó tội gì thế?
Để đến cho ông vớ được đầu.
(Chế ông đốc học)
Cũng chẳng quan tâm đến trung với hiếu, chẳng ôm bão “trí quân trạch dân” mà rặt một phường vừa dốt vừa ngu:
Sơ khảo khoa này, bác cử Nhu Thực là vừa dốt lại vừa ngu
Văn chương nào phải là đơn thuốc Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu
(Ông cử nhu)
Ông cử nhu là con một nhà bán thuốc bắc, học lực tầm thường nhưng lại có bằng cử nhân, được cử làm chủ trì kì thi sơ khảo trường thi Nam Định khoa Canh Tí (1900). Tú Xương chế giễu ông chấm bài thi như bán thuốc bắc, vì nhà hàng thuốc bắc cũng có kiểu đánh dấu vào đơn thuốc lúc bốc thuốc, giống như dùng bút đỏ khuyên một vòng ở câu văn hay.
Qua những bằng chứng cụ thể, Tú Xương rút ra được bản chất của những trí thức đương thời chẳng khác chi một thằng hề:
Nào có ra chi lũ hát tuồng! Cũng hò cũng hét cũng y uông; Dẫu rằng dối được đàn con trẻ
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn!
(Hát tuồng)
Sự nhếch nhác, ảm đạm của con người và không gian trường thi qua cảm nhận của Tú Xương cáo chung cho buổi hoàng hôn của khoa cử Việt Nam. Không khí còn sót lại là sự xô bồ, hỗn độn, trường thi dường như bị biến thành chợ thi, buổi chợ xế chiều chỉ còn sự tẻ nhạt, ảm đạm:
Mười người đi học chín người thôi Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi
(Than đạo học)
Tú Xương thấy cái suy đồi và xuống dốc của đạo học. Bằng cái nhìn phủ định, ông phác họa một bức tranh thể hiện sự rệu rã và tâm lý chán chường của kẻ sĩ. Họ không còn sự hưng phấn và quyết chí, kiên trì theo đuổi khoa bảng. Khoa cử không còn có sự sàng lọc tốt nhất nữa, nó như một phương tiện thăng tiến hổ lốn, và đượm mùi kim tiền. Khung giá trị cho sự tiến thân vinh hiển của nhà nho mấy trăm năm nay, đã đến hồi kết. Thấy sự đổ vỡ của sự quy chuẩn một thời, không ai không khỏi xót xa và hụt hẫng. Với Tú Xương, đau lòng nhưng bất lực.
Sự đô thị hóa chưa thực sự vào nếp, sự thay đổi trong văn hóa không chỉ khiến cho đạo học sa sút mà xã hội đang có sự xáo trộn ghê gớm. Chứng kiến cảnh bản sắc đang dần mai một, đạo lý truyền thống đang bị phá vỡ, Tú Xương chỉ muốn:
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ Giương mắt trông chi buổi bạc tình
(Đau mắt)
Cũng thật dễ hiểu khi mà những thói giả dối, những điều phù phiếm trong xã hội, trong quan hệ con người đều trở thành đối tượng đả kích, trào lộng của Tú Xương. Từ lâu, những cái rởm đời, những cái phù phiếm luôn là đối tượng đả kích, châm biếm của thơ ca. Nhưng chỉ với cái nhìn khách quan và đặc biệt lạnh lùng của Tú Xương thì
những thói đời đó mới được phơi bày trần trụi và mới được bóc tách tới tận cùng. Chính nhờ cảm nhận lạnh lùng mà Tú Xương đã quan sát được những cái tham lam, ích kỉ, vô nghĩa, sáo rỗng đằng sau tiếng “Năm mới chúc nhau”. Hay là phơi bày được những hiện tượng tham lam, nhũng nhiễu, đĩ thõa, dâm ô, cúi luồn, kèn cựa, đủ thứ xấu xa:
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
(Phố hàng Song)
Thành phố “nửa làng” giống như nơi họp mặt của những thói khoe khoang, dâm đãng, lố bịch, là đất hoạt động của bồi bếp, thông ký, của đĩ già đi tu.
Khác hẳn với cách thể hiên hình tượng con người trong văn chương trung đại bằng tư duy phân loại thiên về khái quát hóa, con người mang kích thước và tầm vóc vũ trụ, Tú Xương lại đi vào phác họa con người cụ thể gắn chặt với không gian thành Nam lúc bấy giờ. Không hề mang tính ước lệ tượng trưng, các nhân vật hiện lên trong thơ Tú Xương mang nét hiện thực sâu sắc, góp phần tạo nên một thế giới nhốn nháo, đầy màu sắc và cũng hết sức sinh động.
Tóm lại, bằng con mắt tinh tế, Tú Xương đã kéo tuột xã hội đương thời lên thơ một cách trần trụi. Ông chứng kiến tất cả những đổi thay theo hướng tiêu cực theo quan điểm của nho gia, ông đau lòng và xót xa trước sự đổ vỡ của thang bảng giá trị cũng như chuẩn mực đã chung đúc và xây dựng qua mấy trăm năm. Đằng sau những hình ảnh tưởng như lạnh lùng là cả một tấm lòng xót xa nhưng bất lực. Bó tay trước thực tại, ông chỉ còn vùng vẫy chơi ngông, một kiểu thoát tục rất nghệ sĩ và rất Tú Xương.
2. 2.1.2.Tinh thần tự vấn
Trước thực tại xô bồ, đảo lộn, Tú Xương hoài nghi và phủ định tất cả những giá trị được nêu tên. Tuy nhiên, đối với người nghệ sĩ, nghi vấn thôi chưa đủ, mà cần phải tự vấn. Tự vấn là sự tự ngờ vực chính bản thân mình, với một thái độ nghiêm túc chân thành.