Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 7



cứng nhắc, một bên là tài tử phóng túng tựa gió mây. Cá tính của Tú Xương, cộng với sự đảo lộn của thời đại đã tạo nên bi kịch sâu sắc. Nhưng ở ông lại xuất hiện một khối mâu thuẫn, giữa ước muốn và phong cách sống phóng khoáng với một tâm tính có phần hẹp hòi. Ở Tú Xương, phần người đời thường khá đậm nét. Có lẽ, do thời loạn, thân phận con người trở nên nhỏ bé, con người với những buồn vui trần tục hơn, sống động hơn.

2.2.2. Hệ thống chủ đề, đề tài

Thơ Trần Tế Xương phản ánh sinh động về con người và cuộc sống thị dân. Thơ ông không có nhiều cảnh vật thiên nhiên truyền thống mang tính chất sùng cổ, mà chủ yếu là cảnh sinh hoạt đời sống: sinh hoạt phố phường, gia đình, khoa cử, trường thi... đậm chất thị dân.

Khác với thơ truyền thống, thơ Tú Xương không tập trung phản ánh con người mang tầm vóc vũ trụ, cũng như không coi vũ trụ là căn bản của sự tồn tại. Ông lấy thành Nam nơi ông sống là thế giới thu nhỏ để ông quan sát và bình luận. Mọi sự biến đổi trong tâm lý con người cũng như thay đổi về ngoại cảnh của một đô thị nhất nhì thời đó đều không tuột khỏi tầm ngắm của nhà thơ. Dường như hầu hết thơ Tú Xương đều đóng khung trong cảnh sinh hoạt đô thị.

Trước hết trong thơ Tú Xương cảnh sinh hoạt phố phường hiện lên rất sinh động, đậm chất thị dân. Gói gọn trong khung cảnh phố phường tấp nập nên không có các hình ảnh bao la, kỳ vĩ, mang tầm vũ trụ như trong thơ trung đại. Không gian cảnh trí phố phường của Tú Xương sinh động trong sự vận động vật chất.

Các bài thơ Tú Xương luôn mở ra những bức tranh nhộn nhịp của sinh hoạt phố phường. Đó là những âm thanh sống động của hè phố:

Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh gà Chí cha chí chát khua giày dép Đen thủi đen thui cũng lượt là


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.


(Ngày xuân ngẫu hứng)

Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 7

Mớ âm thanh hỗn độn của phố phường còn “ngân” lên đầy tạp âm, tiếng “eo sèo” của chợ búa, tiềng “xì xào tôm tép” , tiếng “chúc” nhau ồn ào, cả tiếng chào mời của các cô đầu đầy lẳng lơ. Sự bát nháo của cuộc sống thị thành còn hiện lên trong thơ ông Tú như những thước phim quay nhanh về cuộc biến cải loạn nhịp. Trật tự xã hội bị đảo lộn, sư sãi cũng chạy theo vinh hoa giả dối...

Như vậy, không gian phố phường hiện lên rất cụ thể qua những cảnh sinh hoạt, những âm thanh sống động. Không gian ấy rất gần gũi và trần tục. Ta thấy ở đó có con người được mô tả với nỗi buồn vui cụ thể, thân thuộc.

Thứ nữa, một trong các đề tài trở đi trở lại trong thơ Tú Xương là phản ánh việc khoa cử và không gian trường thi. Lịch sử Việt Nam trong suốt gần nghìn năm, các nhà nho luôn gắn bó với khoa cử, với trường thi. Họ đã coi đó là con đường lập thân, là con đường hành động tiên quyết của mình. Đây cũng là đề tài khá phổ biến trong thơ của các nhà nho xưa. Cao Bá Quát có Phó Nam cung xuất giao môn biệt chư đệ tử (Đi thi hội, ra đến cổng làng từ biệt các khuyên học); Nguyễn Công Trứ thì có một chuỗi các bài Đi thi tự vịnh, Nợ công danh, Nợ tang bồng, Chí nam nhi, Nợ nam nhi...; Nguyễn Khuyến cũng có các bài về đề tài này như: Học trò than mình, Tiến sĩ giấy, Giễu mình chưa đỗ..... Nguyễn Công Trứ phản ánh vấn đề thi cử với tấm lòng và tâm nguyện của một người nuôi chí thành danh và vẫn coi cửa Khổng sân Trình là chốn dung thân của một nhà nho hành đạo. Bằng cái nhìn ngưỡng mộ, không gian khoa cử và trường thi trong thơ Nguyễn Công Trứ là không gian vũ trụ bao la và hoành tráng của “Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng” (Nợ công danh).

Cũng gần giống như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến vẫn là một nhà nho hành đạo tích cực, do đó ông vẫn nhìn nhận khoa cử bằng cảm hứng khẳng định theo lý tưởng nho gia:

Cưỡi gió giương vây lên cửa Vũ Xông mây rẽ sóng động vừng trăng



(Cá chép vượt đăng)

Nguyễn Khuyến- một con người vẫn canh cánh tâm niệm và mặc cảm “ơn vua chưa chút báo đền” ấy vẫn coi chốn quan trường- cái đích của khoa cử là “bể Thánh”, là “cửa Vũ”, là một nơi đầy lý tưởng.

Bằng cảm hứng phủ định, đề tài khoa cử hiện lên trong thơ Tú Xương đang đến thời điểm điểm canh cho sự tàn lụi. Không gian trường thi và khoa cử cũng hiện lên xô bồ, hỗn độn; thời buổi trường thi biến thành chợ thi, không khí ảm đạm, nhếch nhác của cảnh suy tàn của khoa cử.

Khoa cử và trường thi hiện lên trong thơ Tú Xương hội tụ đầy đủ của thời kỳ nho phong suy tàn. Không gian khoa cử chỉ gói gọn trong thành Nam- cùng với Hà Nội là một trong những trường thi ở miền Bắc lúc bấy giờ- nên nó không có cái bao la, hoành tráng mà hiện lên ảm đạm của cảnh tàn lụi. Không gian khoa cử của buổi xế chiều ấy còn được phản ánh qua dáng “nằm co” của ông Nghè, ông Cống, qua cái sĩ khí rụt rè “gà phải cáo” của các nhà nho, qua thái độ lăm le “vứt bút lông đi giắt bút chì” và cả tiếng “gào” thật thê thiết- nghe như tiếng rao ế hàng. Trường thi còn được phản ánh qua lớp văn sĩ đỗ đạt không bằng thực lực của mình. Đó là những kẻ “nghe văn mà gớm cho văn mãi”, những kẻ “thực là vừa dốt lại vừa ngu”, những kẻ “dù dở dù hay ông cũng vào”. Chính những con người bất tài mà lại được “trọng tài” này đã khiến cho nền khoa cử không còn được xem là nơi tuyển chọn nhân tài cho đất nước nữa, mà là dấu hiệu cho một sự khép lại gần 1000 năm áp dụng chế độ khoa cử ở nước ta.

Không gian ấy cũng không mang tính sùng cổ như trong cảm thức thực tại của các nhà nho. Cảm hứng phủ định thực tại của Tú Xương hoàn toàn nhằm vào cái lỗi thời, lạc hậu. Đây là một sự đả phá triệt để nên cảm hứng ấy trong thơ Tú Xương được bộc lộ một kiểu cảm hứng trào phúng khác lạ so với kiểu cảm hứng thực tại và kiểu trào tiếu trước thực tại của thơ ca nhà nho.



Ngoài đề tài phản ánh thực tại sinh hoạt và con người thành Nam, đề tài khoa cử, thơ Tú Xương còn viết nhiều về đề tài về các mối quan hệ gia đình, bạn bè bằng hữu, tình yêu trai gái... mang đậm chất thị dân.

Không gian sinh hoạt gia đình cũng đã được Tú Xương khắc họa bằng bút pháp hí họa nhưng cảm hứng không gian hoàn toàn là cảm hứng phủ định và trào phúng. Có cảm hứng trữ tình nên khi viết về đề tài gia đình, Tú Xương làm cho nó vừa lạ vừa quen. Trong cảm hứng trữ tình, không gian gia đình hiện lên trong thơ Tú Xương có cảnh hạnh phúc của vợ chồng:

Viết vào giấy dán ngay lên cột Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay ? Thưa rằng: hay thực là hay !

Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài ? Xưa nay em vẫn chịu ngài!

(Tết dán câu đối)

Không gian gia đình đầm ấm hiện lên trên cái nền của cảm hứng trữ tình nên không có cái tù túng chật chội như không gian cảnh phố phường; không đóng khung trong quy phạm, những chuẩn mực nên không có đường nét và góc cạnh cụ thể. Điều đó làm nên một nét khác biệt và phong phú, tạo nên một biến tấu cho bức tranh cảnh vật của thơ ca Việt Nam với kiểu không gian gia đình.

Bên cạnh đó, không gian gia đình trong thơ Tú Xương còn vừa rất xa lạ và độc đáo trong cảm hứng trào phúng. Đó là không gian gia đình bị đảo lộn “mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng”, của những mụ vợ “nghêu ngao vợ chán chồng”, của thái độ “con khinh bố”. Đó còn là mối quan hệ hôn nhân dựa trên lợi lộc từ “chiếc xe tay” (Mồng hai tết viếng cô Ký)... Khắc họa không gian gia đình bằng cảm hứng trào phúng, Tú Xương đã bóc trần cái bản chất thực, phơi bày tất cả sự giả trá trong gia đình và trật tự gia đình phong kiến. Tú Xương đã phơi bày tất cả những cái xấu xa đồi bại của cái không gian gia đình vô luân, đả kích sự hủ lậu, lỗi thời của những chuẩn mực và luân



lý phong kiến. Về mặt cảm hứng nghệ thuật, với kiểu hình không gian gia đình này, Tú Xương đã vượt qua khỏi quy phạm của thơ ca trung đại.

Tú Xương được mệnh danh là nhà thơ trào phúng, tuy thế, mảng đề tài viết về thiên nhiên không phải là vắng bóng trong thơ ông. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên trong thơ của Tú Xương cũng thật sinh động. Đó là khung cảnh làng quê êm ả trong thời tiết tháng bảy:

Ỳ èo trẻ học nghe không thấy Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu Ông lão nhà quê tang tảng dậy Bảo con đem đó chớ đêm gầu

(Mưa tháng bảy)

Và những cảnh sinh hoạt dân dã, cảnh sinh hoạt gia đình êm ấm hạnh phúc: Nhà gỗ năm gian lợp lá gồi

Trông dòng sông Vị tựa non Côi Đầu nhà khanh khách vào làm tổ Nhìn thấy chim non nó há mồi

Tuy nhiên vẫn còn những cảnh thiên tai:

Dạo này đá chảy với vàng trôi Thiên hạ mong mưa đứng lại ngồi

(Đại hạn)

Và lụt lội:


Ruộng hóa ra dưa nước trắng bừa Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa

(Than nước lụt Bính Ngọ)

Nói thơ Tú Xương thiếu vắng bóng dáng thiên nhiên là nói thiếu vắng cái không gian thiên nhiên cảnh vật theo bút pháp thơ đề vịnh thiên nhiên quen thuộc của thơ ca



nhà nho: bút pháp khắc họa không gian nội cảm. Nhà thơ có trăn trở trước cảnh vật thiên nhiên, nhưng rất ít khi mượn cảnh để ngụ tình. Không gian thiên nhiên trong thơ Tú Xương vẫn phảng phất chút tĩnh mịch quen thuộc của những bức tranh thiên nhiên trong thơ truyền thống, tuy nhiên đấy không phải là những bức tranh sinh động nhất trong kho tàng thơ ông. Không gian nghệ thuật ấn tượng và độc đáo mang đậm nét riêng của Tú Xương vẫn là không gian cảnh phố. Với những bài thơ về cảnh làng quê, Nguyễn Khuyến được xem là nhà thơ của nông thôn. Với một loạt những bài thơ về cảnh phố và cảnh sinh hoạt phố phường, Tú Xương là người đầu tiên đưa cảnh phố và cảnh sinh hoạt của cư dân thành Nam vào thơ nhà nho. Do vậy, có thể nói, với việc thay thế hệ thống thơ đề vịnh thiên nhiên bằng hệ thống thơ “đề vịnh” cảnh phố, Tú Xương xứng đáng được xem là nhà thơ của cảnh phố, là nhà thơ đô thị đầu tiên trong lịch sử văn chương Việt Nam.

2.2.3. Hệ thống hình tượng

Lấy bối cảnh là môi trường thành thị tấp nập, ồn ào, nên hình ảnh, hình tượng trong thơ nhà nho thị dân không mang nét đẹp vũ trụ bao la như thơ truyền thống, và cũng hiếm thấy những cảnh đề thiên nhiên ngụ tình. Tú Xương xô vào thơ tất cả những gì ông nhìn thấy xung quanh thành Nam đô hội. Cũng chỉ có trong thơ Tú Xương, hệ thống nhân vật lại phong phú và sinh động đến vậy. Như chúng ta đã biết, thơ là một loại thể đặc biệt của văn học. Thơ đẹp và kiệm lời. Do đó, nhà thơ thường phải chắt chiu ngôn ngữ rất công phu và thường chọn từ ngữ rất đắt. Khác với văn xuôi, là địa hạt rộng rãi để nhà văn tha hồ thể hiện tài nghệ ngôn ngữ phong phú của mình. Chỉ có ở văn xuôi, các nhân vật mới được xây dựng đậm nét nhất, sinh động nhất. Nhưng Tú Xương lại đã làm ngược lại, nhân vật trong thơ ông rất phong phú, thậm chí lấy nguyên mẫu trong đời sống thực, nên rất cụ thể. Làm được điều này, Tú Xương không chỉ phá vỡ cách làm thơ truyền thống là ý nằm ngoài lời, và thơ rập khuôn theo luật, mà ông thổi vào thơ nét hiện đại mang hơi thở của cuộc sống hiện thực.



Cao Huy Khanh thống kê năm 1997, trong thơ Tú Xương còn có cả một bản danh sách “đen” về các nhân vật. Theo ông, đây là những nhân vật có thực ngoài đời, có lí lịch hẳn hoi, được xướng tên cụ thể. Bản thống kê có viết:

“Với hơn 130 bài thơ để lại (đã qua khảo chứng, còn khoảng 70 bài tồn nghi), Tú Xương đã khắc họa ngắn gọn mà sinh động vô vàn khuôn mặt người đương thời. Trong khuôn khổ của thể thơ Đường cổ điển, có thể nói đó là một sáng tạo đáng kể, nhất là khi nghệ thuật rất gần gũi với phong cách hiện đại: hiện thực hóa bằng những chi tiết cụ thể, chính xác (tên tuổi, quê quán, hoạt động…) trích ra từ cuộc sống, xã hội trần trụi chung quanh, trước mắt là Nam Định quê ông.

Trước hết là tuyến nhân vật “đắc địa” nhất của ông– nhân vật tiêu cực: vợ chồng toàn quyền Pháp, Thành Pháo, Đốc Kinh, Cử Nhu, Bố Cao…

Bên cạnh đó cũng có tuyến nhân vật tích cực (ít nhiều) cũng được chỉ định tên tuổi rõ ràng kèm theo những nét phác họa điển hình mà khuôn khổ luật thơ cũ không cho phép dài dòng. Nhiều nhất là bạn bè: Ấm Các, Ấm Điềm, Cử Hồng, Cử Kiều, vợ chồng Cử Phỏng, vợ chồng Phạm Tuấn Phú, mẹ của bạn Trần Song Ứng. Hoặc một số nhân vật có thật khác ngoài đời nêu một tấm gương tốt nào đó đáng suy nghĩ : Cụ Phan Bội Châu, cụ Cao Xuân Dục, cụ Khóa Cự, chú Mán, cô Cáy chợ Rồng. Hay người tình cũ: Cô Hai Đích, cô đầu Tuyết; người trong gia đình: Vợ (nhiều bài), em gái Trần Thị Khiết, ông chú Trần Đăng Chu….

Và cuối cùng, đặc biệt nhất là mẫu nhân vật số một bao trùm tất cả, bàng bạc khắp nơi, một nhân vật nửa tích cực nửa tiêu cực – chính là bản thân tác giả với số lượng đồ sộ là trên 35 bài:

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành Mắt thời thao láo, mặt thời xanh. Vuốt râu nịnh bợ, con bu nó Quắt mắc khinh đời , cát bộ anh!



Bản danh sách “Người thật việc thật” thật phong phú, đa dạng với 54 gương mặt con người hiện diện sinh động vẽ nên bức tranh sinh hoạt xã hội nước ta thu nhỏ vào đầu thế kỷ này (nếu tính cả số nhân vật ám chỉ nhưng cũng hoàn toàn có thật thì số lượng nhân vật kể trên có thể lên đến con số 70). Có thể nói đây là “chuyên gia viết loại tiểu phẩm thơ hiện thực đầu tiên của ta” (Cao Huy Khanh).

Có thể nói, Cao Huy Khanh đã tổng kết khá gọn những hình tượng thường xuất hiện trong thơ Tú Xương, đặc biệt là ở mảng trào phúng mang đậm chất hiện thực. Thế giới nhân vật trong thơ Tú Xương phong phú nhiều kiểu người, nhiều hạng người với nhiều tâm thế khác nhau, nhưng tựu trung đều góp phần thể hiện sự biến chuyển của thời thế, của xã hội thông qua sự thay đổi trong cuộc sống và tâm lý của những con người cụ thể.

Điều đặc biệt, nhân vật cuối cùng trong bản danh sách ấy là hình tượng bản thân tác giả. Có thể nói đây là hình tượng trung tâm trong kho tàng thơ Tú Xương. Tuy nhiên, hình tượng cái tôi tác giả cũng hiện lên với hai thái cực. Một bên là hình tượng của một nhà nho thành thị với những vần thơ trào phúng hóm hỉnh, đối diện với nhiều vấn đề của xã hội: gia đình, thi cử, sinh hoạt đô thị... Và một hình tượng cái tôi luôn xuất hiện trong những vần thơ trữ tình, trầm lắng hơn. Cái tôi tác giả trong thơ trào phúng mang tính chất đả kích và tâm tính không phóng khoáng, có khi còn đẩy lên mức hẹp hòi. Ngược lại, cái tôi trong những bài thơ như Đêm buồn, Đêm dài... sâu sắc hơn, tinh tế hơn mà nỗi lòng cũng da diết hơn, đó là nhân vật trữ tình với bi kịch của sự phức tạp và đa cảm. Theo chúng tôi, đây mới là hình tượng trung tâm trong thơ Tú Xương. Có thể cái tôi thứ nhất xuất hiện nhiều hơn trong thơ, nhưng những tác phẩm tuyệt tác của Tú Xương được đếm trên đầu ngón tay ấy lại diễn tả con người có nội tâm phong phú và sâu lắng này.

Bài thơ được nhiều người biết đến và được thuộc nhiều nhất có lẽ phải kể đến bài thơ Sông lấp của ông:

Sông kia rày đã nên đồng

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 28/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí