Xây dựng mô hình cảnh báo nguy cơ vỡ nợ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 7

hàng huy động được từ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân,… Tổng vốn huy động này là tài sản thuộc sở hữu của các khách hàng khác nhau, ngân hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền sở hữu và ngân hàng phải hoàn trả đúng hạn khi khách hàng có yêu cầu rút tiền. Tổng vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn hoạt động của ngân hàng nhưng lại không ổn định, có thể dao động mạnh. Chỉ tiêu vốn chủ sở hữu/ tổng huy động vốn tiền gửi phản ánh mức độ đảm bảo an toàn cho tiền gửi của khách hàng bằng vốn chủ sở hữu.

b) Chất lượng tài sản: Chất lượng tài sản kém là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đổ vỡ ngân hàng. Do việc quản lý không tốt trong chính sách cho vay làm giảm chất lượng tài sản. Khi chất lượng tài sản của NH kém sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng. Phân tích chất lượng tài sản là công việc quan trọng và phức tạp nhất. Các chỉ tiêu đo lường chính gồm có

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ

Hiện nay, ở Việt Nam các ngân hàng chia dư nợ ra thành 5 nhóm nợ (Quyết định 493/QĐ-NHNN, 2005), trong đó:

“Nhóm 1- Nợ đủ tiêu chuẩn: Các khoản nợ trong hạn mà TCTD đánh giá đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn. Khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 khi khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được TCTD đánh giá là có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại.

Nhóm 2- Nợ cần chú ý: Bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2.

Nhóm 3- Nợ dưới tiêu chuẩn: Bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3.

Nhóm 4- Nợ nghi ngờ: Bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 180 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4.

Nhóm 5- Nợ có khả năng mất vốn: Bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5”.

Trong đó nợ xấu là tổng nợ của các nhóm 3, 4, 5. Nợ quá hạn là tổng các nhóm nợ từ 2 đến 5. Tỷ lệ nợ xấu được tính bằng tổng nợ xấu trên dư nợ cho vay, chỉ tiêu này dùng để đo chất lượng tài sản của ngân hàng đồng thời chỉ tiêu này dùng để xác định độ rủi ro của các tài sản trong danh mục cho vay. Nếu tỷ lệ nợ xấu càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp, quản trị rủi ro của ngân hàng chưa hiệu quả. Theo khuyến cáo của Moodys thì tỷ lệ này không nên vượt quá 2%, còn theo quy định của NHNN Việt Nam thì tỷ lệ nợ xấu không vượt quá 3%. Tuy nhiên, cách phân loại nợ của các NHTM Việt Nam áp dụng trong thời gian qua có sự khác biệt so với cách phân loại nợ theo chuẩn quốc tế, do vậy con số nợ chưa thể hiện đúng tình trạng nợ xấu của các NH.

Để có cái nhìn toàn diện hơn về chất lượng tài sản người ta có thể xem xét thêm chỉ tiêu:

Nợ khó đòi/ (VCSH và dự phòng nợ khó đòi)

Trong quá trình hoạt động ngân hàng luôn gặp phải rủi ro tín dụng, để đảm bảo an toàn hoạt động cũng như đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý các NH phải trích lập dự phòng rủi ro. Trong đó dự phòng nợ khó đòi được trích lập trên cơ sở phân loại nợ. Chỉ tiêu nợ khó đòi/ (VCSH và dự phòng nợ khó đòi) cho biết tỷ lệ % của vốn chủ sở hữu bị đóng băng hay gắn chặt trong các khoản vay không hiệu quả có khả năng gây lỗ hay % vốn tự có có thể bị giảm đi do ảnh hưởng của nợ xấu, nợ khó đòi. Chỉ tiêu đánh giá khả năng chịu đựng những tổn thất do nợ khó đòi gây ra đối với nguồn vốn của ngân hàng. Khi giá trị của chỉ tiêu này lớn cho thấy ngân hàng hoạt động không an toàn, nguy cơ mất hết vốn chủ sở hữu cao, nguy cơ vỡ nợ cao.

Các chỉ tiêu:

Dự phòng nợ khó đòi/ Nợ khó đòi; dự phòng nợ khó đòi/ dư nợ cho vay được tính trên cơ sở tỷ số của các khoản tiền trích lập dự phòng cho nợ khó đòi với quy mô nợ khó đòi, quy mô cho vay của ngân hàng. Các chỉ tiêu vừa phản ánh mức độ, quy mô của nợ khó đòi, vừa phản ánh mức độ bù đắp rủi ro của NH khi nợ khó đòi không thu hồi được.

Ngoài ra có thể xem xét thêm các chỉ tiêu: tỷ lệ cho vay/ tài sản sinh lời; gửi và cho vay trên thị trường liên ngân hàng/ tài sản sinh lời, Chứng khoán đầu tư và chứng

khoán kinh doanh/ tài sản sinh lời, đầu tư góp vốn dài hạn/ tài sản sinh lời. Các chỉ tiêu này phản ánh cấu trúc đầu tư vốn của ngân hàng vào tài sản sinh lời.

c) Quản lý: Quản lý có vai trò quyết định đến thành công trong hoạt động của ngân hàng. Các quyết định của người quản lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những yếu tố khác trong CAMELS như: chất lượng tài sản có; mức độ tăng trưởng của tài sản có; mức độ thu nhập. Tuy nhiên khi nhìn vào báo cáo tài chính của các NHTM để đánh giá năng lực quản lý của ngân hàng là rất khó khăn ta cần kết hợp thêm các phân tích định tính khác. Một số chỉ tiêu được sử dụng

Tỷ lệ tổng thu nhập so với số lượng cán bộ nhân viên

Tỷ lệ tổng lợi nhuận sau thuế so với số lượng cán bộ nhân viên

Chỉ tiêu này phản ánh thặng dư thu được cho mỗi nhân viên NH, tỷ lệ này cao chứng tỏ năng lực quản lý, điều hành của NH tốt do đó đem lại thu nhập cao cho nhân viên.

d) Lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ số quan trọng để đánh giá công tác quản lý và các hoạt động chiến lược của nhà quản lý thành công hay thất bại. Mục tiêu tạo lợi nhuận là mục tiêu tối cao của NHTM. Lợi nhuận sẽ dẫn đến hình thành thêm vốn, đây là điều hết sức cần thiết để thu hút thêm vốn và sự hỗ trợ phát triển trong tương lai từ phía các nhà đầu tư. Lợi nhuận còn cần thiết để bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và giúp trích lập dự phòng đầy đủ.

ROA = Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản.

Chỉ tiêu ROA phản ánh khả năng sinh lời của tài sản nên còn có tên gọi là tỷ lệ sinh lời của tài sản. ROA thể hiện khả năng sử dụng linh hoạt, hiệu quả quản lý tài sản. ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng cao. Tuy nhiên, trị số của chỉ tiêu này quá lớn cũng hàm chứa rủi ro cao. Ngược lại ROA thấp thể hiện việc cho vay hay đầu tư không hợp lý hoặc chi phí hoạt động của ngân hàng quá cao. Bản chất của chỉ tiêu này là phân tích hiệu quả của tài sản nên tử số có thể được sử dụng bằng các chỉ tiêu kết quả khác nhau, không nhất thiết là chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế. Theo thang đo CAMEL, tỷ lệ ROA trên 1.5% phản ánh năng lực tài chính của NH mạnh và hiệu quả.

ROE = Lợi nhuận ròng/ Vốn tự có

Chỉ tiêu ROE được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn tự có, phản ánh tính lành mạnh của ngân hàng. Theo

thang đo CAMEL, tỷ lệ ROE của NH trên 22%, ngân hàng đạt mức 1, mức phản ánh năng lực tài chính mạnh, hiệu quả, từ 17%-21.99%, ngân hàng đạt mức 2, ngân hàng có năng lực tài chính cơ bản là tốt, tuy nhiên còn tồn tại một số điểm yếu.

Bên cạnh đó, việc xem xét mối quan hệ giữa ROA và ROE còn phản ánh sự đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập. Có thể thấy một NH có thể có ROA thấp nhưng vẫn đạt được ROE cao do sử dụng đòn bẩy tài chính.

Tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần:

Thu nhập lãi thuần là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi vay và thu nhập từ lãi cho vay. Lợi nhuận của các ngân hàng có được chủ yếu từ hoạt động cho vay do vậy tốc độ tăng trưởng lãi thuần là một chỉ tiêu phản ánh khá tốt khả năng sinh lời của ngân hàng. Một ngân hàng có giá trị của chỉ tiêu này lớn cho thấy khả năng sinh lời của NH tốt, NH có thể bù đắp rủi ro, tổn thất trong hoạt động, do đó nguy cơ vỡ nợ sẽ giảm.

Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế: chỉ tiêu này cũng tương tự như chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của NH.

Chi phí dự phòng nợ khó đòi/ tổng thu nhập trước dự phòng và thuế

Chi phí dự phòng nợ khó đòi là một chi phí khác biệt của ngân hàng so với các loại hình doanh nghiệp khác. Ngân hàng “đi vay để cho vay” và tìm kiếm lợi nhuận từ khoản lãi chênh lệch, nếu thu được lãi nhiều nhưng nợ khó đòi lớn cũng sẽ gây tổn thất chi phí, gây mất an toàn cho ngân hàng.

Thu nhập từ phí dịch vụ/ tổng thu nhập hoạt động

Ngoài hoạt động cơ bản là hoạt động tín dụng thì các ngân hàng còn có hoạt động dịch vụ khác. Chỉ tiêu thu nhập từ phí dịch vụ/ tổng thu nhập hoạt động cho biết tỷ trọng của thu nhập từ phí dịch vụ trong tổng thu nhập.

Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên

NIM = (Tổng thu từ lãi - tổng chi lãi vay) / Tổng tài sản có sinh lời

Tỷ lệ thu nhập lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi của ngân hàng. Tỷ lệ NIM phản ánh năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì tăng trưởng của các nguồn thu so với mức tăng chi phí. Tỷ lệ NIM cao là dấu hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và nợ. Ngược lại, tỷ lệ NIM thấp cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc tạo lợi nhuận. Tỷ lệ NIM tác động ngược chiều đến nguy cơ vỡ nợ.

Ngoài các chỉ tiêu trên có thể xem xét thêm các chỉ tiêu

Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên

NOM = ( Tổng thu nhập ngoài lãi – tổng chi phí ngoài trả lãi) / Tổng tài sản

Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi biên ròng đo lường chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu từ nguồn thu phí các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu.

EPS = Lợi nhuận sau thuế / Tổng số cổ phiếu thường hiện hành

Thu nhập trên cổ phiếu (EPS) đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu thường hiện hành.

Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận ròng / tài sản sinh lời

Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của tài sản sinh lời.

(Lãi thuần- chi phí hoạt động)/ chi phí hoạt động

Hoạt động huy động và cho vay là hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng, tỷ lệ trên phản ánh khả năng tạo lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng.

Để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng thông qua hoạt động kinh doanh chính người ta còn sử dụng các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần; Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế.

Tổng thu nhập trên tổng tài sản, phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản của ngân hàng. Trị số của chỉ tiêu lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.

Ngoài ra các ngân hàng hiện đang sử dụng thêm một số chỉ tiêu:

Tổng thu nhập/ tổng chi phí, phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của NH. Thông thường, trị số của chỉ tiêu này phải lớn hơn 1. Nếu nhỏ hơn 1, hiệu quả hoạt động của NH kém, nếu tình trạng này kéo dài NH sẽ có nguy cơ phá sản.

Chi phí dự phòng nợ khó đòi và giảm giá đầu tư chứng khoán/ thu nhập lãi thuần.

e) Thanh khoản: Thanh khoản có vai trò quan trọng đối với NH. Ngân hàng ngoài việc đảm bảo chi trả các chi phí như các doanh nghiệp khác còn phải đáp ứng yêu cầu vay mới của khách hàng mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng. Ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.Việc đánh giá mức độ thanh khoản của NH thường căn cứ vào nhiều khía cạnh: mức biến động của

tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng.

Tốc độ tăng trưởng tiền gửi: Tiền gửi là phần vốn huy động quan trọng bậc nhất của NH, đây là phần vốn chiếm tỷ trọng lớn và có chi phí thấp. Ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tiền gửi cao cho thấy khả năng, uy tín của ngân hàng trong huy động tiền gửi và ngân hàng đã có một đầu vào tốt.

Tốc độ tăng trưởng các khoản vay: Hoạt động cho vay là hoạt động chính của NH, NH có tốc độ tăng trưởng các khoản vay cao cho thấy NH đã tìm kiếm được các đối tác kinh doanh. Tuy nhiên nếu tốc độ tăng trưởng các khoản vay quá lớn, tốc độ tăng trưởng tiền gửi không theo kịp với tốc độ tăng trưởng các khoản vay thì NH sẽ mất cân đối dòng tiền, rủi ro thanh khoản lớn. Do đó khi phân tích chỉ tiêu này cần xem xét nó trong mối tương quan với tốc độ tăng trưởng tiền gửi.

Các khoản cho vay thuần/ tiền gửi của khách: Tỷ lệ này đánh giá tương quan giữa phần vốn cho vay với phần tiền gửi của khách. Tỷ lệ này quá cao sẽ tiềm ẩn rủi ro thanh khoản.

Huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư/ tổng huy động: phản ánh tỷ trọng của phần vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư trong tổng huy động.

Huy động trên thị trường liên ngân hàng/ tổng huy động: phản ánh tỷ trọng của phần vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng trong tổng huy động. Nếu tỷ lệ này cao cho thấy ngân hàng bị phụ thuộc nhiều vào thị trường liên ngân hàng, rủi ro thanh khoản của NH đã tăng lên.

Tỷ lệ tài sản lỏng/ tổng tài sản có: phản ánh phần tài sản của ngân hàng được phân bổ vào những loại tài sản có tính thanh khoản cao.

Tỷ lệ cho vay (cho vay ròng/tổng tài sản): phản ánh phần tài sản của ngân hàng được phân bổ vào những loại tài sản có tính thanh khoản kém. Việc tăng cường sử dụng vốn vay có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu việc rút tiền tăng và chất lượng khoản vay giảm. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng thấp do đó rủi ro thanh khoản càng cao.

Hệ số thanh khoản (%) = Tài sản thanh khoản/ Tổng nợ ngắn hạn

Hệ số này thể hiện khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của ngân hàng bao gồm tiền gửi ngắn hạn của các tổ chức kinh tế, dân cư, vay NHNN hay TCTD,... bằng các tài sản có tính thanh khoản.

Tài sản thanh khoản trên tổng tài sản: Đây là chỉ số đơn giản nhất để xem xét khả năng thanh khoản của ngân hàng qua việc nhìn trực tiếp vào bảng cân đối kế toán. Tài sản thanh khoản gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, các khoản tiền gửi ngắn hạn tại các ngân hàng khác, chứng chỉ tiền gửi có thể chiết khấu, chứng khoán khả dụng có thời gian đáo hạn dưới 1 năm.

Hệ số đảm bảo tiền gửi (%) = Tài sản thanh khoản/ Tổng tiền gửi

Tỷ lệ này cho biết khả năng chi trả của ngân hàng đối với yêu cầu rút tiền gửi của các ngân hàng, các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi tại ngân hàng.

Tỷ lệ dư nợ cho vay và tiền gửi (%) = Tổng dư nợ cho vay/ Tổng tiền gửi

Tỷ lệ này đánh giá tương quan giữa sử dụng vốn huy động đầu tư vào hoạt động tín dụng. Tỷ lệ này phản ánh khả năng tài trợ cho các khoản vay tăng thêm từ các nguồn tiền gửi. Tỷ lệ này cho biết một đồng huy động được từ khách hàng thì đầu tư bao nhiêu vào tài sản sinh lời. Tỷ lệ này cao thể hiện việc không để nguồn vốn bị nhàn rỗi, tận dụng cơ hội kinh doanh. Song tỷ lệ này quá cao, ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro thanh khoản trong tương lai khi người gửi tiền rút tiền trước hạn trong khi ngân hàng lại chưa thu hồi được tiền cho vay.

Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản: Tỷ lệ này đánh giá tỷ trọng vốn huy động từ nguồn tiền gửi trong tổng tài sản, nó thể hiện khả năng, uy tín của ngân hàng trong huy động tiền gửi. Tuy nhiên tỷ lệ này lớn thể hiện rủi ro thanh khoản cao.

Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (tổng tài sản/tổng vốn chủ sở hữu): Ngân hàng thường có tỷ lệ đòn bẩy cao hơn các ngành khác do vai trò “trung gian tài chính” của mình.

Tổng dư nợ/vốn huy động: phản ánh khả năng đầu tư của một đồng vốn mà ngân hàng huy động được. Chỉ tiêu giúp so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với vốn huy động. Chi tiêu này được các ngân hàng sử dụng nhằm phân tích hiệu quả nghiệp vụ tín dụng.

Vốn huy động/ vốn tự có: phản ánh khả năng, quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế.

f) Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường: Phân tích mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của thay đổi về lãi suất và/hoặc tỷ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần. Đồng thời qua đó thể hiện khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị trường. Khi đánh giá hạng mục này cần xem xét các vấn đề sau: quy mô ngân hàng; bản chất và mức độ phức tạp về hoạt động kinh doanh của ngân hàng; và mức độ đầy

đủ về vốn và thu nhập liên quan đến mức độ rủi ro thị trường. Rủi ro thị trường có thể do thay đổi về lãi suất, do những hoạt động kinh doanh ngoại hối.

Qua việc phân tích các chỉ tiêu trong mô hình CAMEL ở trên tác giả tổng kết và nêu kỳ vọng về dấu của các chỉ tiêu ảnh hưởng tới nguy cơ vỡ nợ trong bảng 2.1.

Bảng 2.1: Các chỉ tiêu trong mô hình CAMEL


Tên

biến

Nội dung

Dấu

kỳ vọng

Nhóm C- Mức độ an toàn vốn


c1

Tăng trưởng vốn chủ sở hữu

-

c2

CAR-Tỷ lệ an toàn vốn

-

c3

Vốn chủ sở hữu/Tổng huy động vốn tiền gửi

-

c4

Vốn chủ sở hữu/Tài sản có

-

c5

Tăng trưởng tài sản có rủi ro

+

c6

Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1

-

Nhóm A- Chất lượng tài sản


a1

Dự phòng nợ khó đòi/Nợ khó đòi

+

a2

Dự phòng nợ khó đòi/Dư nợ cho vay

+

a3

Nợ khó đòi/(Vốn chủ sở hữu+ dự phòng nợ khó đòi)

+

a4

Tỷ lệ cho vay/Tài sản sinh lời

+/-

a5

Gửi và cho vay trên TT liên ngân hàng/Tài sản sinh lời

-

a6

Chứng khoán đầu tư và chứng khoán kinh doanh/Tài sản sinh lời

+

a7

Đầu tư góp vốn dài hạn/Tài sản sinh lời

+

a8

Nợ khó đòi/ Dư nợ cho vay

+

Nhóm E- Khả năng sinh lời


e1

ROA

-

e2

ROE

-

e3

Chi phí DP nợ khó đòi+ giảm giá ĐT chứng khoán/Thu nhập lãi thuần

+

e4

(Lãi thuần-chi phí hoạt động)/chi phí hoạt động

-

e5

Lợi nhuận sau thuế/thu nhập lãi thuần

-

e6

Tổng thu nhập/Tổng tài sản có

-

e7

Tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần

-

e8

Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận sau thuế

-

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Xây dựng mô hình cảnh báo nguy cơ vỡ nợ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 7

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 13/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí