Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Nguy Cơ Vỡ Nợ Của Các Ngân Hàng Thương Mại

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỠ NỢ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


Chương 2, tác giả phân tích và đề xuất tiêu chí để xác định nguy cơ vỡ nợ các NHTMCP, phân tích hệ thống các chỉ tiêu sử dụng trong cảnh báo vỡ nợ và cơ sở lý thuyết của một số mô hình cảnh báo vỡ nợ sẽ thực nghiệm trong luận án.

2.1. Tiêu chí xác định nguy cơ vỡ nợ

Bước đầu tiên trong xây dựng mô hình cảnh báo vỡ nợ là xác định được khái niệm vỡ nợ ngân hàng, tiêu chí lựa chọn mẫu. Ở Việt Nam, vỡ nợ của các TCTD trong đó có các ngân hàng được quy định rất chặt chẽ, thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa từng ghi nhận sự kiện đổ vỡ ngân hàng mà chỉ xuất hiện các NHTMCP yếu kém, nguy cơ vỡ nợ cao, NHNN thường đưa vào diện kiểm soát đặc biệt, tổ chức tái cơ cấu hoặc tiến hành cho sáp nhập, chưa tiến hành các thủ tục phá sản, thanh lý. Do vậy nghiên cứu này xem xét quá trình suy giảm tài chính, xem xét các dấu hiệu rủi ro tiềm tàng dẫn tới đổ vỡ ngân hàng, phân nhóm các ngân hàng thành hai nhóm: nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao và nhóm có nguy cơ vỡ nợ thấp.

Như đã trình bày ở chương 1, mục 1.2.2, các tác giả trên thế giới đã xác định ngân hàng vỡ nợ, ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ cao dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Các tiêu chí đó có thể là tiêu chí về khả năng thanh khoản ngân hàng, tiêu chí về xếp hạng ngân hàng, tiêu chí về mức độ an toàn vốn, tiêu chí về chất lượng tài sản. Trong bối cảnh hệ thống NH Việt Nam giai đoạn 2010-2015, chất lượng tài sản của các ngân hàng là một vấn đề nhận được sự quan tâm nhiều nhất, rủi ro tín dụng là nỗi sợ hãi lớn nhất đối với các nhà quản lý. Đo lường rủi ro tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng có thể thực hiện thông qua nhiều chỉ tiêu, trong đó nợ xấu là chỉ tiêu phổ biến nhất để đo lường rủi ro tín dụng. Nợ xấu là một vấn đề thường trực trong hoạt động của ngân hàng và nó gây ra một số tác động tiêu cực như sau:

+ Nợ xấu làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Nợ xấu làm giảm doanh thu và nếu nghiêm trọng sẽ dẫn đến tình trạng thua lỗ. Theo Berger và De Young (1997), khi các khoản nợ xấu tăng sẽ làm các khoản chi phí tăng lên đáng kể: nó bao gồm chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu, chi phí trích lập dự phòng rủi ro và các khoản chi phí liên quan. Việc gia tăng các khoản chi phí khiến cho lợi nhuận còn lại cũng trở lên thấp hơn so với dự tính ban đầu.

+ Nợ xấu ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng: Nợ xấu khiến NH không thu hồi được các khoản cho vay điều này làm mất cân đối dòng tiền vào và dòng tiền ra khiến NH bị giảm khả năng thanh toán. Cao hơn nữa nợ xấu sẽ khiến ngân hàng đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán. Với tỷ lệ nợ xấu cao có thể khiến ngân hàng bị phá sản.

+ Nợ xấu làm giảm uy tín của ngân hàng: Khi một NH có mức độ rủi ro của các tài sản có cao (nợ xấu cao) thì NH bị giảm uy tín. Rõ ràng người gửi tiền không muốn gửi tiền vào NH có tỷ lệ nợ quá hạn cao, nợ xấu vượt quá mức cho phép, có chất lượng tín dụng không tốt, gây ra nhiều vụ thất thoát lớn. Thông tin về một ngân hàng có mức rủi ro cao nếu lan truyền trong dân chúng sẽ khiến cho uy tín cạnh tranh của ngân hàng giảm mạnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

+ Nợ xấu có thể làm phá sản ngân hàng: Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những khoản vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của chính ngân hàng. Khi ngân hàng không chuẩn bị trước các phương án dự phòng, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu rút vốn quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán. Nếu không giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt và làm ngân hàng bị đổ vỡ và ở Việt Nam ngân hàng Habubank là một trường hợp điển hình của việc vỡ nợ do tỷ lệ nợ xấu cao. Hơn nữa khi một ngân hàng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến hiệu ứng lan truyền đến cả hệ thống, gây mất niềm tin của người dân, của nhà đầu tư, của doanh nghiệp, của các tổ chức quốc tế. Nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng hậu quả trực tiếp của tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong hệ thống ngân hàng là ngân hàng phá sản.

Ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu tới ngân hàng là rất lớn và nợ xấu là vấn đề thường trực do đó câu hỏi là tỷ lệ nợ xấu như thế nào là cao và khiến ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo chuẩn mực quốc tế hiện nay thì tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận được là dưới 5%. Tại Việt Nam, theo quy định tại nghị định 53/2013/NĐ-CP và thông tư số 19/2013/ TT-NHNN thì “Các TCTD có tỷ lệ nợ xấu từ 3 % trở lên phải bán nợ cho VAMC. Trường hợp tổ chức tín dụng không bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét, áp dụng các biện pháp thanh tra, giám sát chặt chẽ”. Quy định này cho thấy NHNN xác định rất rõ tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên sẽ gây mất an toàn cho các TCTD và NHNN buộc phải có các can thiệp hành chính nhằm đảm bảo đưa tỷ lệ nợ xấu của TCTD về mức an toàn là dưới 3%.

Xây dựng mô hình cảnh báo nguy cơ vỡ nợ đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 6

Có thể thấy:

+ Vấn đề nợ xấu tăng cao trong hệ thống NH là vấn đề cấp bách nhất cần giải quyết trong thời kỳ 2010-2015. Các NH có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên bị NHNN đặt trong tình trạng giám sát.

+ Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra ảnh hưởng tiêu cực của tỷ lệ nợ xấu cao tới nhiều mặt hoạt động của NH, nhiều nghiên cứu đã minh chứng mối liên hệ giữa tỷ lệ nợ xấu cao và vỡ nợ ngân hàng (Dermirgue- Kunt, 1989, Barr và Siem, 1994).

Ngoài ra NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với mục tiêu lớn nhất là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ số quan trọng để đánh giá công tác quản lý và hoạt động của ngân hàng thành công hay thất bại. Lợi nhuận góp phần bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và giúp trích lập dự phòng đầy đủ. Vì vậy tác giả luận án sẽ dựa trên cơ sở hiệu quả hoạt động của các NH để bổ sung thêm căn cứ phân nhóm nguy cơ vỡ nợ các ngân hàng. Cụ thể, tác giả cho rằng các ngân hàng có chất lượng tín dụng kém (thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu cao) có nguy cơ tổn thất tài sản cao trong khi đó nếu hiệu quả hoạt động của NH lại chỉ ở mức trung bình thậm chí yếu kém sẽ khiến NH không có khả năng bù đắp các tổn thất, mức độ tổn thương của NH cao do đó nguy cơ vỡ nợ cao.

Hiện nay, các cơ quan quản lý tiền tệ thường sử dụng phương pháp bao dữ liệu (DEA) để đánh giá hiệu quả và xếp hạng các NH về mặt hiệu quả. Luận án sẽ sử dụng phương pháp DEA ước lượng hiệu quả kỹ thuật của các NH từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động (thông qua lợi nhuận) của các ngân hàng, phân nhóm các NH thành 3 nhóm hiệu quả (nhóm A- nhóm hiệu quả tốt, B- Nhóm hiệu quả khá, C- nhóm hiệu quả trung bình, yếu kém).

Trên cơ sở các luận cứ trên tác giả luận án chọn tiêu chí xác định nguy cơ vỡ nợ như sau: Biến nguy cơ vỡ nợ (Y) được gán trị bằng 1 (nguy cơ vỡ nợ cao) nếu ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu từ 3% trở lên và thuộc nhóm C khi sử dụng DEA để phân nhóm. Biến Y gán giá trị bằng 0 (nguy cơ vỡ nợ thấp) trong các trường hợp khác. Lựa chọn tiêu chí xác định nguy cơ vỡ nợ trong luận án này của tác giả khác với các nghiên cứu khác bởi các lý do sau:

+ Nhiều nghiên cứu vỡ nợ trên thế giới sử dụng các thông tin về các ngân hàng vỡ nợ thực sự, trong khi đó ở Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp nào vỡ nợ theo thông lệ quốc tế.

+ Có nghiên cứu đã sử dụng tiêu chuẩn của hệ số an toàn vốn (CAR>8%) làm tiêu chí phân loại nhưng ở Việt Nam NHNN đã ban hành TT 13/2010 yêu cầu bắt buộc về hệ số an toàn vốn ( CAR 9% ) nên tất cả các NHTM đều đạt theo tiêu chí này.

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới nguy cơ vỡ nợ của các ngân hàng thương mại

Hậu quả của việc ngân hàng vỡ nợ là rất lớn và để hạn chế vỡ nợ các ngân hàng cần xác định được các nguyên nhân, các nhân tố tác động đến nguy cơ vỡ nợ các ngân hàng. Theo các nghiên cứu trước các nguyên nhân có thể bắt nguồn từ yếu tố vĩ mô, các yếu tố vi mô thuộc các đặc thù của các ngân hàng.

2.2.1. Các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng

Ở khía cạnh vĩ mô, hoạt động của các NHTMCP bị ảnh hưởng nhiều bởi sự phát triển kinh tế, các chính sách tiền tệ của NHNN, sự cạnh tranh trong ngành.

Sự phát triển kinh tế

Khi nền kinh tế phát triển, tăng trưởng, thu nhập của các thành phần kinh tế có xu hướng tăng làm tăng lượng tiền gửi, khả năng huy động vốn của hệ thống NH tăng lên. Đồng thời khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì nhu cầu sử dụng vốn tăng lên điều này giúp cho các NH hoạt động dễ dàng hơn. Hơn thế nữa khi kinh tế tăng trưởng sẽ giúp các doanh nghiệp, các cá nhân có thu nhập tốt hơn và khả năng trả nợ vốn vay, lãi vay cho ngân hàng tăng nên, ngân hàng sẽ giảm được rủi ro tín dụng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy giảm, thu nhập của các thành phần kinh tế giảm và biến động, lượng tiền nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống và lượng tiền đã ký thác vào hệ thống NH còn có thể bị rút ra. Khi đó NH sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố lòng tin của khách hàng. Suy thoái kinh tế mặt khác sẽ ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh, hiệu quả lợi nhuận của doanh nghiệp do đó giảm khả năng trả vốn vay, lãi vay cho ngân hàng, ngân hàng có thể đối mặt với nguy cơ tăng nợ xấu, giảm lợi nhuận. Sự phát triển kinh tế có thể được thể hiện bằng các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng GDP, VNIndex,...

Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, tài chính – tiền tệ của Nhà nước

Hoạt động của các NH chịu sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý. Các NHTM chịu sự điều chỉnh của luật các TCTD và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà nước, các NH phải tuân thủ những quy định về lãi suất, dự trữ, hạn mức cho vay trong từng thời kỳ. Khi các quy phạm pháp luật đầy đủ, linh hoạt phù hợp, theo sát thị trường sẽ góp phần tạo môi trường hoạt động kinh doanh lành mạnh thuận lợi cho các NH, từ đó giúp các NH kinh doanh hiệu quả, tăng trưởng bền vững. Ngược lại khi hệ thống các văn bản pháp luật chưa đồng bộ, có nhiều bất cập, thường xuyên thay đổi sẽ gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng.

Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế, tài chính – tiền tệ và tín dụng nhằm một số mục tiêu nhất định như thúc đẩy tăng trưởng, ổn định nền kinh tế, ngăn chặn lạm

35

phát cao và hỗ trợ việc thực hiện các mục tiêu kinh tế khác của quốc gia. Để theo đuổi các mục tiêu quan trọng Chính phủ thông qua NHNN sử dụng nhiều công cụ tác động tới dự trữ pháp định của hệ thống ngân hàng, mức lãi suất đối với các khoản cho vay và giá trị tương đối của đồng nội tệ trên thị trường. Mỗi chính sách của NHNN đều tác động tới lãi suất và mức độ thay đổi lãi suất, nhịp độ các quá trình kinh tế. Chẳng hạn NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất nếu muốn hạn chế quy mô cho vay trong nền kinh tế và theo đó hạn chế nhịp độ các quá trình kinh tế. Ngược lại, NHNN sẽ hạ thấp mặt bằng lãi suất nếu muốn thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp và khuyến khích cá nhân vay vốn. Tất cả các chính sách đó đều ảnh hưởng tới luồng tiền lưu thông trên thị trường và sự thay đổi tăng hay giảm của luồng tiền sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, các tổ chức lập pháp của Chính phủ và Bộ tài chính thường xuyên đưa ra các quyết định quan trọng liên quan tới vấn đề thu nhập và chi tiêu Chính phủ, các chính sách thuế, chính sách đầu tư, những vấn đề này có ảnh hưởng lớn tới hoạt động, rủi ro và sự phát triển của NH.

Tóm lại các chính sách tài chính, hiện trạng cơ cấu tài trợ của Bộ tài chính, chính sách tài chính có thể thực hiện, sự điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đều tác động trực tiếp tới giá trị tài sản, nguồn vốn vay, vốn chủ sở hữu và quy mô, chi phí, thu nhập của ngân hàng.

Mức độ cạnh tranh

Trong những năm qua, theo những cam kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế như tổ chức thương mại thế giới, thị trường tài chính nước ta ngày càng trở nên sôi động hơn do sự tham gia của nhiều loại hình NH và các tổ chức tài chính phi ngân hàng, đặc biệt là có sự tham gia của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế là có hạn. Vì vậy, mức độ cạnh tranh ngành này khá khốc liệt, ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của các ngân hàng nhất là trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn như hiện nay.

2.2.2. Các nhân tố vi mô ảnh hưởng tới nguy cơ vỡ nợ của các ngân hàng thương mại

Các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng chúng ta cần nghiên cứu nhưng rõ ràng những yếu tố vi mô thuộc về đặc thù của các ngân hàng mới là các yếu tố then chốt. Trên thực tế khi các cú sốc kinh tế vĩ mô xảy đến thì việc tác động tới các ngân hàng cụ thể là khác nhau, có những ngân hàng dễ dàng vượt qua khủng hoảng

ngược lại có những ngân hàng đi đến khủng hoảng, phá sản. Các cú sốc kinh tế sẽ làm tăng mức độ rủi ro của các hoạt động, làm bộc lộ các yếu kém trong quản trị của các ngân hàng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các chỉ số tài chính được tính toán từ các BCTC là nguồn phân tích chủ yếu giúp dự báo vỡ nợ (Beaver (1966), Atlman (1968), Choudhy (2007)). Tác giả Atlman (1968) đề cập 5 chỉ số:

X1: Vốn lưu động/ Tổng tài sản

Chỉ tiêu X1 cho biết trong một đồng tổng tài sản có bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu X1 là chỉ tiêu về khả năng thanh khoản của doanh nghiệp và nó là một chỉ tiêu quan trọng nhằm xác định tỉ lệ tài sản có khả năng thanh khoản cao trong tổng nguồn vốn.

X2: Lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản

Tỉ lệ này cho biết tỉ lệ lợi nhuận giữ lại trên một đồng tài sản, đo lường lợi nhuận cộng dồn theo thời gian, đo lường hiệu quả trong sử dụng tài sản. Lợi nhuận giữ lại cho biết khả năng tài chính cũng như khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, tỉ lệ lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản là lực đòn bẩy của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tỉ lệ này cao chứng tỏ rằng doanh nghiệp chủ yếu bổ sung giá trị tài sản bằng lợi nhuận giữ lại chứ không sử dụng nợ.

X3: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Tổng tài sản

X3 cho biết tỉ lệ lợi nhuận doanh nghiệp tạo ra là bao nhiêu so với tổng tài sản. X3 đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sẽ phá sản khi tổng nợ của nó vượt quá giá trị tài sản thực của doanh nghiệp mà giá trị tài sản thực lại được đánh giá dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Do vậy, chi tiêu này ảnh hưởng lớn tới khả năng phá sản của doanh nghiệp. Khi chỉ tiêu X3 tăng lên, hiệu quả kinh doanh tăng, giá trị tài sản của doanh nghiệp tăng dẫn tới nguy cơ vỡ nợ của doanh nghiệp giảm và ngược lại.

X4: Giá trị thị trường vốn chủ sở hữu/ Giá trị sổ sách của tổng nợ

Giá trị thị trường VCSH được xác định bởi giá trị thị trường của tất cả các cổ phần của cổ phiếu đó, bao gồm cả cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường. Tổng nợ bao gồm nợ dài hạn và nợ ngắn hạn. Hầu hết các nghiên cứu chỉ xét đến giá trị sổ sách của VCSH nhưng trong nghiên cứu của Altman, ông đã xét đến giá trị thị trường trong biến số này.

X5: Doanh thu/ Tổng tài sản

Chỉ tiêu X5 cho biết, một đồng tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu do đó chỉ tiêu này đánh giá khả năng tạo ra doanh thu của tài sản.

Tác giả Choudhy (2007), Pavlos Almanidis và Robin C. Sickles (2012) cùng nhiều tác giả khác chỉ ra rằng các tỷ lệ tài chính của mô hình CAMELS là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động của các TCTD đặc biệt là ngân hàng do đó các chỉ tiêu này cũng quan trọng trong việc dự báo vỡ nợ ngân hàng. Hệ thống đánh giá, xếp hạng CAMEL do Ủy ban quản lý các tổ hợp tín dụng quốc gia Mỹ xây dựng và áp dụng từ tháng 10/1987 nhằm cung cấp công cụ hỗ trợ giám sát các tổ chức tín dụng tại Mỹ. Hệ thống CAMEL dựa trên 5 nhóm nhân tố cơ bản được sử dụng để đánh giá điều kiện tài chính và khả năng hoạt động của một TCTD đặc biệt là các ngân hàng, đó là: Mức độ an toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản (Asset Quality), Quản lý (Management), Lợi nhuận (Earnings) và Thanh khoản (Liquidity) (CAMEL: viết tắt từ chữ cái đầu của các từ tiếng Anh trên). Sau này một số tổ chức có bổ sung thêm nhân tố Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sensitivity to Market Risk, S) và hệ thống gọi là CAMELS. Các nhân tố trên phản ánh mức độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản trong quá trình hoạt động của TCTD.

Phân tích các chỉ tiêu trong các nhóm nhân tố của mô hình CAMELS.

a) Mức độ an toàn vốn:

Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có sử dụng để hỗ trợ và phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó thể hiện mức độ đảm bảo an toàn tài sản của ngân hàng. Vốn tự có là tấm đệm giúp bù đắp các khoản lỗ bất thường có thể xảy ra. Vốn tự có là căn cứ để xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn sẽ cho phép ngân hàng áp dụng chiến lược kinh doanh mạo hiểm, cũng như mở rộng kinh doanh và như thế khả năng sinh lời cũng cao hơn; trong khi đó nếu vốn chủ sở hữu thấp sẽ làm giảm tính năng động trong hoạt động của ngân hàng. Khi xem xét về vốn, các nhà phân tích thường nghiên cứu tới quy mô vốn chủ sở hữu, khả năng tạo vốn từ lợi nhuận để lại của ngân hàng và quan trọng nhất là xem xét sự hợp lý về vốn của ngân hàng trong việc bù đắp các tài sản có rủi ro qua việc xem xét mối tương quan của vốn với tổng tài sản quy đổi theo mức độ rủi ro. Các tiêu chí mức độ an toàn vốn bao gồm:

Hệ số an toàn vốn: CAR = Vốn tự có/ Tổng tài sản có rủi ro

Vốn tự có gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 là phần vốn tự hình thành ban đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động của TCTD, đây là nguồn vốn

tương đối ổn định, gồm vốn lưu động, quỹ dự trữ, dự phòng, thặng dư vốn, lợi nhuận không chia và các khoản khác. Vốn cấp 2: là nguồn vốn tăng thêm khi TCTD đi vào hoạt động, gồm vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu vốn, trái phiếu chuyển đổi. Tổng tài sản “có” rủi ro là tổng giá trị tài sản “có” xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản “có” tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro.

Hệ số an toàn vốn ngoài việc đo lường tỷ lệ an toàn vốn của NHTM nó còn có ý nghĩa đo khả năng đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ của NH đối với người gửi tiền tại NH đó. Theo quy định tại Thông tư 36/2014 của NHNN hệ số an toàn vốn tối thiểu là 9 % còn theo tiêu chuẩn của Basel II và III là từ 8% trở lên. Ngân hàng có tỷ lệ CAR càng cao thì sẽ bảo vệ nhà đầu tư, người gửi tiền càng tốt khi NH gặp rủi ro trong kinh doanh.

Hệ số tăng trưởng vốn chủ sở hữu:

Để đáp ứng yêu cầu của sự gia tăng tài sản các ngân hàng phải tìm cách tăng trưởng vốn chủ sở hữu. Hệ số này cho thấy được sự thay đổi của vốn chủ sở hữu giữa hai thời kỳ, thông thường chỉ tiêu này sẽ được xem xét cùng với chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng tổng tài sản.

Hệ số đòn bẩy tài chính ( Leverage ) L = Tổng nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu

Hệ số đòn bẩy là thước đo thông dụng mức độ nợ trên vốn chủ sỡ hữu được nhiều ngân hàng áp dụng. Hệ số này cho biết khả năng huy động vốn của ngân hàng lớn gấp bao nhiêu lần so với vốn chủ sở hữu, đồng thời đo lường mức độ phụ thuộc của NH vào nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Ngân hàng có tỷ lệ này càng cao thì nhà đầu tư, các chủ nợ của NH càng ít được bảo vệ và ngược lại. Cũng do đặc điểm hoạt động của ngân hàng là ‘đi vay để cho vay’ lên hệ số đòn bẩy của các ngân hàng thường cao hơn so với các doanh nghiệp kinh doanh khác.

Hệ số tự tài trợ (%) = Vốn chủ sở hữu/ Tổng tài sản

Hệ số tự tài trợ là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập tài chính của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng số nguồn vốn của ngân hàng, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm mấy phần. Chỉ tiêu này lớn cho thấy khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của ngân hàng cao và ngược lại.

Vốn chủ sở hữu/ tổng huy động vốn tiền gửi

Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, phần vốn này có tính chất ổn định, có chức năng bảo vệ. Tổng huy động vốn tiền gửi là nguồn vốn mà ngân

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023