Ảnh Hưởng Của Nhóm Phi Chính Thức Đối Với Thanh Thiếu Niên


trở ngại trong các mối quan hệ tình cảm. Bên cạnh sự hỗ trợ từ gia đình hay nhà trường, một yếu tố bảo vệ cho học sinh trung học phổ thông đó là việc tham gia vào một mạng lưới xã hội. Nghiên cứu này cũng đã thực hiện phỏng vấn sâu với nhiều em học sinh và nhận thấy bất kể với giới tính nào, mọi học sinh được phỏng vấn đều coi trọng việc có bạn. Cụ thể hơn, các em học sinh tìm đến bạn bè để chia sẻ “vui buồn”, để “quên đi” cảm giác buồn bã từ những xung đột trong quan hệ gia đình hoặc quan hệ thầy trò và để tâm sự những băn khoăn lo lắng tuổi dậy thì và chuyện tình cảm. Trong thực tế, hầu hết các em tin rằng “có bạn bè” là điều khiến các em hạnh phúc. Một số em lựa chọn chia sẻ với các bạn về những rắc rối trong cuộc sống, tin rằng bạn “hiểu” các em. Đối với các em trong giai đoạn giữa của lứa tuổi vị thành niên, bất kể ở địa bàn nào, bạn bè được xem là yếu tố then chốt đối với sức khỏe tâm lý xã hội. Một số em cũng ý thức được việc thiếu bạn có ý nghĩa như thế nào khi đối mặt với căng thẳng tâm lý xã hội.

Tác giả Nguyễn Quý Thanh đã đưa ra khái niệm “nhóm thành viên”, chẳng hạn nhóm bạn, nhóm đồng nghiệp, nhóm cùng sở thích, v.v. đóng vai trò là một môi trường rất quan trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội một cách cả chính thống và phi chính thống. Đây là một trong bốn môi trường xã hội hóa nổi bật nhất cho phép các cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội [30]. Các môi trường xã hội hóa còn lại là gia đình, trường học và truyền thông đại chúng (như báo, đài, vô tuyến truyền hình và hiện nay là mạng Internet, là mạng xã hội như Facebook.


1.2. Ảnh hưởng của nhóm phi chính thức đối với thanh thiếu niên


Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã có cùng nhận định rằng bạn cùng trang lứa (peers) và bạn chơi cùng (friends) đóng vai trò là những nhân tố chủ đạo ảnh hưởng tới các quan hệ xã hội và hành vi sai lệch nói riêng của thanh thiếu niên, đặc biệt trong độ tuối vị thành niên và tuổi mới lớn. Thanh thiếu niên luôn muốn cảm thấy được chấp nhận như một phần của một nhóm nào đó và coi trọng tình bạn thân thiết của cá nhân, đây là những cấu trúc xã hội có liên quan mật thiết đến các định hướng


và hành vi tạo động lực của nhóm này [82]. Cho đến nay hầu hết các nhà nghiên cứu về phát triển trẻ em đều khẳng định sự tồn tại có ý nghĩa của các mối quan hệ của trẻ với nhóm phi chính thức bao gồm bạn bè và bạn đồng trang lứa của trẻ [47]; [73]. Các mức độ khác nhau của trải nghiệm với các mối quan hệ đó được phân biệt, sự ổn định của mối quan hệ đó qua các giai đoạn phát triển, các quá trình năng động mà mối quan hệ đó thay đổi theo thời gian đều ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý xã hội của trẻ em và thanh thiếu niên [76].

Chất lượng tình bạn có liên quan chặt chẽ đến các định hướng và động lực thực hiện hành vi của thanh thiếu niên. Một số yếu tố trong mối quan hệ đồng đẳng đã được xác định là những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng tới cảm giác cô đơn ở tuổi trẻ. Thứ nhất, mức độ trẻ được bạn bè chấp nhận hay từ chối, thường được đánh giá bằng các thước đo xã hội học theo thang phân loại và xếp hạng về mức độ chấp nhận của bạn bè [47]; [72] hoặc các thước đo đề cử xã hội học “giống nhất” và “ít thích nhất” [81]. Những đứa trẻ được bạn bè chấp nhận ít hơn có mức độ cô đơn cao hơn so với những đứa trẻ được nhiều bạn bè chấp nhận hơn [43]; [58]; [59].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 179 trang tài liệu này.

Chen Bin-Bin cho rằng trải nghiệm tương tác nhóm đồng đẳng là một bối cảnh duy nhất để phát triển [49]. Nhóm xã hội đồng đẳng là một trong những hình thức quan trọng của tương tác giữa các cá nhân ở cấp độ nhóm. Với tư cách là một bối cảnh xã hội và văn hóa, nhóm đồng đẳng đóng một vai trò quan trọng và đặc biệt trong sự phát triển xã hội của trẻ em. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra những đứa trẻ thất bại trong các lĩnh vực năng lực xã hội với bạn bè đồng trang lứa, do không thiết lập được tình bạn thân thiết hoặc bị từ chối trong nhóm bạn đồng trang lứa lớn hơn, sẽ phải trải qua vô số kết quả không tốt [44].

Jonathan D. Lane và Ju-Hyun Song đã nhận định mối quan hệ bạn bè đồng trang lứa là một trong những cơ sở xã hội hóa chính đối với trẻ em, và hành vi của trẻ em giữa các bạn cùng tuổi chính là một chỉ số có ý nghĩa về năng lực xã hội quan trọng [66]. Lý do sâu xa cho hệ quả này là các bạn đồng trang lứa xem những đứa trẻ bị bỏ rơi đã không tuân thủ các chuẩn mực hành vi dành riêng cho lứa tuổi. Các tương tác đồng đẳng đáng được quan tâm đặc biệt vì chúng không chỉ bị ảnh

Việc tham gia nhóm phi chính thức và hành vi sai lệch của học sinh THPT tại thành phố Hà Nội - 5


hưởng bởi hành vi khó gần của trẻ em mà còn có thể ảnh hưởng đến sự xa lánh xã hội (social withdrawal) của trẻ. Sự xa lánh xã hội gia tăng được dự đoán là do sự bất ổn trong tình bạn, sự vắng mặt của một người bạn thân là người có tính xã hội cao. Có một nhóm đồng đẳng tích cực và có những người bạn làm mẫu cho hành vi hướng ngoại hơn có thể khuyến khích những đứa trẻ thu mình có thể tham gia và tương tác xã hội tốt hơn.

Vai trò của bối cảnh nhóm có cùng vấn đề trầm cảm trong việc điều chỉnh ứng xử xã hội và trường học của cá nhân cũng được xem xét trong thanh thiếu niên Trung Quốc [49]. Các nhóm đồng đẳng được xác định bằng cách sử dụng kỹ thuật bản đồ nhận thức xã hội. Các phân tích nhiều chiều cho thấy rằng trầm cảm của nhóm làm gia tăng về chứng trầm cảm của cá nhân sau này. Hơn nữa, trầm cảm của nhóm ảnh hưởng tiêu cực tới năng lực xã hội, năng lực ở trường học và thành tích học tập, khả năng trở thành nạn nhân của bắt nạt cũng như các vấn đề học tập sau này. Kết quả cho thấy việc kết giao với nhiều nhóm bạn cùng trang lứa có dấu hiệu trầm cảm sẽ gây ra nhiều vấn đề về tâm lý, xã hội và ứng xử học đường hơn ở thanh thiếu niên Trung Quốc.

Nghiên cứu của Bowker và cộng sự với năm nhóm thiếu niên được xác định theo tình trạng của mối quan hệ bạn bè trong một đánh giá về các đặc điểm hành vi gắn với sự ổn định và linh hoạt trong các dạng quan hệ bạn bè thân thiết ở lứa tuổi thiếu niên cũng cung cấp những nhận xét có liên quan [47]. Năm nhóm trẻ được đánh giá trong nghiên cứu này bao gồm (1) trẻ có quan hệ bạn bè thân thiết nhất mang tính ổn định với cùng một trẻ khác; (2) trẻ có quan hệ bạn bè thân thiết nhất với hai trẻ khác nhau ở hai thời điểm; (3) trẻ có quan hệ bạn bè thân thiết nhất ở thời điểm thứ nhất nhưng không có quan hệ đó nữa ở thời điểm thứ hai; (4) trẻ không có quan hệ bạn bè thân thiết nhất ở thời điểm thứ nhất nhưng lại có ở thời điểm thứ hai; và (5) trẻ không có bạn bè thường xuyên. Theo đó các tác giả đã nhận xét nhóm thiếu niên ở trong mối quan hệ bạn bè thân thiết ít bị gây hấn hơn và nhóm mất đi tình bạn bị kéo vào hành vi sai lệch nhiều hơn vào thời điểm thứ hai. Hai nhóm trẻ có mối quan hệ bạn bè ổn định cho thấy các hành vi hợp chuẩn và


cũng phổ biến, với mức độ gây hấn và nguy cơ bị đưa vào hành vi sai lệch thấp hơn. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng sự nhất quán trong việc có được bất kỳ tình bạn tốt đẹp nào theo thời gian có thể đóng vai trò quan trọng đối với sự điều chỉnh hành vi của trẻ cũng như đã nêu bật tầm quan trọng của việc "củng cố" tình bạn tốt đẹp nhất.

Trẻ em và thanh thiếu niên cho biết có sự đồng hành nhiều hơn, sự ủng hộ quý trọng, lòng trung thành, sự thân thiết, sự tương đồng về sở thích và hỗ trợ về mặt tinh thần từ những người bạn chơi thể thao cùng; giúp các em có trải nghiệm tích cực, năng lực nhận thức, động cơ tự quyết định và cam kết tham gia hoạt động cao hơn so với việc không có nhóm bạn thân thiết [83]. Các nghiên cứu đã chứng minh một cách nhất quán ý nghĩa động lực của các mối quan hệ đồng đẳng giữa những thanh thiếu niên tham gia hoạt động thể dục thể thao. Thực hiện các biện pháp can thiệp tập trung vào các nhóm đồng đẳng và tình bạn với tư cách là tác nhân thay đổi hành vi là một hướng đi đầy hứa hẹn cho các nghiên cứu trong tương lai về động lực hoạt động thể chất của thanh niên (dẫn theo [82]).

T.A. Wills cũng nhận thấy nhiều thanh thiếu niên sẽ rơi vào tình huống liên quan tới một số chất kích thích như hút thuốc và uống rượu,... [84]. Khi một người có được sự ủng hộ cao từ các bạn và sự ủng hộ ít hơn từ cha mẹ thì việc sử dụng chất kích thích đặc biệt tăng cao. Wayne Osgood và cộng sự đã xem xét vị trí của vị thành niên trong các nhóm tình bạn trong mạng xã hội toàn trường có liên quan đến việc sử dụng rượu, thuốc lá và cần sa như thế nào [71]. Với cỡ mẫu khoảng 9.500 thanh thiếu niên mỗi năm, các tác giả nhận thấy rằng các thành viên cốt lõi của các nhóm tình bạn có xu hướng uống rượu nhiều hơn so với những người cô lập, đặc biệt là khi họ hòa nhập xã hội tích cực trong bối cảnh trường học, gia đình và tôn giáo. Các thành viên biệt lập có xu hướng sử dụng thuốc lá nhiều hơn các thành viên cốt cán, thậm chí kiểm soát tất cả các yếu tố khác.

Tình trạng nhóm cũng được xem xét như một khía cạnh có thể điều tiết các thành viên trong nhóm đồng đẳng về hành vi lệch lạc, hung hăng và sự ủng hộ xã hội. Tính trung tâm của nhóm cao (khả năng hiển thị) làm tăng khả năng lây lan


trong thành viên của nhóm các hành vi gây hấn quan hệ, hành vi lệch lạc và hành vi ủng hộ xã hội và sự chấp nhận của nhóm đã tăng cường hành vi lệch lạc. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của nhóm lên hành vi không đồng nhất mà phụ thuộc vào trạng thái của nhóm [52].

Mối quan tâm về tội phạm nhóm đồng đẳng có liên quan đến Lý thuyết liên kết khác biệt (DAT- Liên kết khác biệt, tăng cường). DAT kết hợp với lý thuyết Học tập xã hội đề xuất rằng các hành vi phạm tội, các kỹ thuật cụ thể của tội phạm, động cơ tội phạm và các lý do hợp lý tương ứng để vi phạm pháp luật không phải là di truyền; mà họ được học thông qua tương tác xã hội trực tiếp với những người khác; và các tội phạm khác nhau, tùy thuộc vào nhận thức của một cá nhân về các thái độ xã hội, văn hóa và bạn bè liên quan [80].

Mối quan hệ của học sinh với các bạn đồng trang lứa rất quan trọng trong việc dự đoán kết quả học tập và hành vi nguy cơ cao của học sinh. Các mối quan hệ xã hội không đầy đủ đã được phát hiện là nguyên nhân dẫn đến tái diễn hành vi phạm tội đối với cả người lớn và thanh thiếu niên [62]. Những học sinh có vấn đề về mối quan hệ bạn bè có thể khiến họ có hành vi bạo lực, bao gồm những học sinh không có sự hướng dẫn, hỗ trợ hoặc gắn bó của cha mẹ vì sẽ ít được trang bị để thích ứng với các yêu cầu của nhà trường và dẫn đến sự thất vọng vì thất bại ở trường. Những học sinh này dễ bị tổn thương hơn trước những cám dỗ và áp lực mà chúng phải trải qua từ các bạn cùng lứa tuổi, và nhiều thanh niên chuyển sang hành vi gây rối và phạm pháp trong trường học [80].

Rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như dư luận xã hội đã chỉ ra tác động xấu đến nhận thức về tình bạn, tình yêu và hành vi ứng xử của các người chưa thành niên của yếu tố môi trường văn hóa – xã hội thiếu lành mạnh như: sự lan tràn và phổ biến của các phim ảnh, băng hình, sách báo có nội dung bạo lực, đồi trụy, phản giáo dục. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đề cập nhiều về ảnh hưởng không tốt của môi trường gia đình (phương pháp giáo dục chưa đúng đắn, chưa khoa học của cha mẹ, phong cách ứng xử chưa thích hợp, nhân cách sai lệch chuẩn mực xã hội của người thân trong gia đình, …) đối với sự hình thành nhân cách lệch lạc và


những hành vi tiêu cực của trẻ. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi cho rằng ảnh hưởng không tốt của gia đình chỉ mang tính chất dẫn dắt chứ không trực tiếp dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của các em. Nhận định đó được khẳng định khi xem xét tới thực tế phần lớn những hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên đều có liên quan đến nhóm bạn không chính thức tiêu cực; đa số các hành vi vi phạm pháp luật của các em đều được thực hiện trong nhóm đó [10].

Cùng với đó, vị thành niên có hành vi xâm hại tình dục được phát hiện có ít mối quan hệ đồng đẳng phù hợp hơn, có nhiều khả năng bị cô lập hoặc có năng lực xã hội thấp, đồng thời vượt qua mức độ kiểm soát của cộng đồng trong tình trạng cô đơn. Nhìn chung, những trường hợp bị cô lập về mặt xã hội hoặc thiếu khả năng hình thành các mối quan hệ đồng đẳng thân mật về mặt tình cảm có nguy cơ tái phạm hành vi xâm hại tình dục cao hơn [62].

Các quan sát có liên quan được Piehler và Dishion mô tả trong nghiên cứu với các cặp nam sinh mười bốn tuổi [75]. Các tác giả này đã nhận thấy những người bạn có hành vi sai lệch cung cấp những phản ứng tích cực có lời và không lời cho những nội dung trao đổi lệch lạc, nhưng không có đối với những cuộc nói chuyện bình thường. Ngược lại, những người bạn không gắn với hành vi sai lệch và bạn bè nói chung lại tán dương trước những lời nói chuyện chuẩn mực, nhưng không lệch lạc. Hơn nữa, những phản ứng tích cực của bạn bè dẫn đến việc gia tăng loại hành vi trước đó và việc không có phản hồi dẫn đến giảm hành vi trước đó [56].


1.3. Hành vi sai lệch của thanh thiếu niên


Thanh thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên là nhóm xã hội – nhân khẩu đặc thù trong xã hội, ở giai đoạn sung sức về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình nhưng cũng là lứa tuổi bồng bột, chủ quan, nông nổi, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc, kỹ năng sống và vốn hiểu biết xã hội, pháp luật còn nhiều hạn chế, dễ bị ảnh hưởng, lôi kéo bởi những tác động khách quan của cuộc sống xã hội. Mặt khác đây là lứa tuổi chưa phát triển đầy đủ


về thể chất cũng như về tâm sinh lý, kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức còn hạn chế, khả năng kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, hoạt động vi phạm pháp luật.

Trong quá trình tìm kiếm, xây dựng cái tôi – cái tôi độc đáo khác biệt, và cái tôi xã hội, thanh thiếu niên rất dễ có những hành vi lệch chuẩn. Điểm quan trọng là tỷ lệ thanh thiếu niên thực sự trở thành tội phạm chuyên nghiệp thường không quá cao, mà chỉ dừng ở mức độ có hành vi lệch chuẩn, hoặc tội phạm, xuất phát phần lớn từ nhu cầu tìm kiếm và khẳng định cái tôi. Điều có có nghĩa là nếu xã hội có thể kịp thời can thiệp, đa số thanh thiếu niên có hành vi lệch chuẩn có thể trưởng thành là những người công dân đáng tin cậy. Ngược lại, nếu không có sự can thiệp kịp thời thì các em rất dễ bị sa vào con đường tội phạm chuyên nghiệp, gia nhập vào nhóm những người sống ngoài vòng pháp luật khi trưởng thành. Điều này không chỉ có hại cho tương lai của các em, mà còn là sự đe dọa tới sự ổn định, an toàn và phát triển của tổng thể xã hội.


1.3.1. Các biểu hiện hành vi sai lệch của thanh thiếu niên


Các hành vi sai lệch của thanh thiếu niên rất đa dạng với các biểu hiện khác nhau, như đã được tác giả Đỗ Ngọc Hà chỉ ra, bao gồm 1/ Sai lệch về tư tưởng, ý thức chính trị- xã hội bao gồm quan niệm lý tưởng sống, trong học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, về ý thức trách nhiệm của công dân đối với đất nước, về mục đích động cơ trở thành đoàn viên, đảng viên, về tính tích cực chính trị xã hội. 2/ Các biểu hiện sai lệch trong học tập: mục đích, động cơ học tập; Quan điểm thái độ đối với trường học, học tập trong trường; Quan niệm các giá trị trong học tập; Quan điểm thái độ đối với sự sai lệch trong học tập; Sai lệch về ý thức, thái độ, hành vi trong học tập. 3/ Sai lệch trong nghề nghiệp việc làm. 4/ Sai lệch trong hoạt động vui chơi, giải trí.5/ Sai lệch trong giao tiếp ứng xử. 6/ Các hành vi vi phạm pháp luật [6].

Tìm hiểu các công trình nghiên cứu về hành vi sai lệch trong thanh thiếu niên trên thế giới có thể nhận thấy phần lớn đều gắn với bối cảnh trường học, trong đó dễ


nhận thấy nhất là hành vi bạo lực học đường [68]. Nghiên cứu được tiến hành bởi AshfordR (2009) cùng với Tổ chức Phát triển Quốc tế tại Mỹ năm 2009 cho biết có 11,1% các học sinh tham gia đánh nhau trong đó có 6,7% học sinh nữ và 15,1% học sinh nam. Nghiên cứu về thực trạng biểu hiện bạo lực trong trường học tại các nước Châu Á cũng đưa ra những số liệu rất đáng báo động. Tại Nhật Bản trong năm học 2012, theo báo cáo của Bộ Giáo dục có đến 23.110 vụ bạo lực tại 10.137 trường học cả cấp II và cấp III (dẫn theo [9]).

Tại Việt Nam, hai cuộc điều tra, nghiên cứu quy mô lớn là “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” giai đoạn I, từ 2003 đến 2005 (gọi tắt là SAVY I) và giai đoạn II, tiến hành từ 2008 đến tháng 2010 (gọi tắt là SAVY II) có thể được coi là những cuộc điều tra nghiên cứu quy mô và toàn diện nhất về thanh thiếu niên [3]; [39]. Các cuộc điều tra do Bộ Y Tế, Tổng cục Thống kê, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản HCM phối hợp tiến hành, các tổ chức quốc tế UNICEF và WHO hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật. Mẫu được sử dụng trong hai cuộc điều tra là khá lớn, SAVY I là 7.584 vị thành niên và thanh niên tại 42 tỉnh thành phố; với SAVY II là 10.044 vị thành niên và thanh niên ở 63 tỉnh thành phố. Bằng những phương pháp điều tra nghiên cứu khá hiện đại, các điều tra viên được tập huấn kỹ càng, cả hai cuộc điều tra SAVY I và SAVY II đã mô tả được tương đối đầy đủ và chính xác về những đặc điểm của thanh thiếu niên Việt nam ở lứa tuổi từ 14 đên 24, thực trạng đời sống, tâm lý, tư tưởng, tình cảm, lối sống và các nguy cơ đối với đời sống của họ. Không trực tiếp nghiên cứu sâu vào đối tượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật, nhưng SAVY I-II đã phân tích khá rõ những nguy cơ lớn có thể dẫn tới các hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Chẳng hạn như tỷ lệ thất học, tình trạng thiếu việc làm, những thái độ hành vi có liên quan đến việc sử dụng chất kích thích, rượu bia, thuốc lá, ma túy, các mối quan hệ xã hội, sự tụ tập kết bạn. Hạn chế của SAVY I-II là việc xử lý kết quả nghiên cứu phần nhiều còn mang tính thống kê mô tả, chưa có những phân tích sâu, nhị biến hoặc hồi quy đa biến nhằm xác định rõ hơn những nguy cơ có thể dẫn tới hành vi sai lệch và vi phạm pháp luật ở thanh thành niên. Tuy nhiêu nhiều số liệu điều tra của SAVY I-II

Xem tất cả 179 trang.

Ngày đăng: 14/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí