- 94 -
Giá trị trung bình (Mean) | Độ lệch chuẩn (Std. De) | Mức ý nghĩa quan sát ( Sig.) | |||
Sửa đổi, bổ sung | BCTC phải được lập theo quy mô DN và phù | DN | 2.74 | .583 | |
NĐT | 2.67 | .676 | |||
BCTC | hợp với nhu cầu của | .597 | |||
doanh | người sử dụng thông | ||||
Tổng | 2.71 | .618 | |||
nghiệp | tin. | ||||
Thống nhất một chế độ kế toán, DN được lựa | DN | 2.98 | .694 | ||
NĐT | 2.86 | .593 | |||
chọn hình thức BCTC | .388 | ||||
phù hợp với quy mô và | |||||
Tổng | 2.94 | .656 | |||
đặc thù. | |||||
BCTC công ty cổ phần | DN | 2.18 | .468 | ||
đại chúng hoặc niêm yết phải được công bố | .000 | ||||
NĐT | 3.03 | .686 | |||
Tổng | 2.51 | .654 | |||
bắt buộc trên Website. |
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Cấu, Nội Dung Hệ Thống Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Hiện Hành
- Đánh Giá Thực Trạng Và Vấn Đề Cần Giải Quyết Đối Với Hệ Thống Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Việt Nam
- Đối Chiếu Hệ Thống Báo Cáo, Các Bctc Cơ Bản Giữa Vas Và Ias/ifrs
- So Sánh Việc Ghi Nhận Giá Trị Các Nguồn Lực Tri Thức Trong Cơ Cấu Tài Sản Vô Hình Của Doanh Nghiệp Giữa Vas Và Ias/ifrs
- Nhận Diện Những Vấn Đề Cần Giải Quyết Đối Với Hệ Thống Bctc Doanh Nghiệp Hiện Nay
- Các Giải Pháp Hoàn Thiện Hệ Thống Báo Cáo Tài Chính Doanh Nghiệp Việt Nam
Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.
Nguồn : Xử lý và tổng hợp của tác giả.
Kết quả về ý kiến của một số doanh nghiệp và nhà đầu tư được thống kê trong Bảng 2.4 được mô tả tóm tắt như sau:
- Về Cơ sở tính giá, nguyên tắc, yêu cầu lập và trình bày BCTC
Các doanh nghiệp và nhà đầu tư được hỏi ý kiến đã đồng ý một phần (mean = 2,31) về việc cơ sở tính giá, nguyên tắc, yêu cầu lập và trình bày BCTC đã thống nhất và đồng bộ, và đồng ý (mean xấp xỉ 3,0) về việc chúng đã phù hợp với kinh tế thị trường ở Việt Nam, phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, dễ hiểu, dễ áp dụng. Trong khi đó, mức ý nghĩa quan sát (Sig.) < 0.05 cho thấy có sự khác biệt (mang ý nghĩa thống kê) trong ý kiến của doanh nghiệp và nhà đầu tư về tính thống nhất, đồng bộ của cơ sở tính giá, nguyên tắc, yêu cầu lập và trình bày BCTC. Theo đó, mức độ đồng ý của doanh nghiệp thấp hơn đáng kể so với nhà đầu tư.
- 95 -
- Về Hình thức, nội dung, kết cấu, phương pháp lập BCTC hiện nay
Các doanh nghiệp và nhà đầu tư được hỏi ý kiến đã đồng ý một phần (mean xấp xỉ 2,0) về việc hình thức, nội dung, kết cấu, phương pháp lập BCTC hiện nay đã đầy đủ, hợp lý, phù hợp với điều kiện, quy mô doanh nghiệp, dễ hiểu, dễ thực hiện. Trong khi đó, mức ý nghĩa quan sát (Sig.) < 0.05 cho thấy có sự khác biệt (mang ý nghĩa thống kê) trong ý kiến của doanh nghiệp và nhà đầu tư về sự phù hợp với điều kiện, quy mô doanh nghiệp đối với hình thức, kết cấu, phương pháp lập BCTC hiện nay. Theo đó, mức độ đồng ý của doanh nghiệp thấp hơn đáng kể so với nhà đầu tư.
- Sử dụng thông tin trên BCTC
Các doanh nghiệp và nhà đầu tư được hỏi ý kiến đã đồng ý (mean xấp xỉ 3,0) rằng thông tin trên BCTC hiện có ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế, BCTC hiện là kênh thông tin chủ yếu và ưu tiên trong việc ra quyết định kinh tế. Tuy nhiên, họ chỉ đồng ý một phần (mean xấp xỉ 2,0) là BCTC hiện đã đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thông tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
- Hạn chế của hệ thống BCTC
Các doanh nghiệp và nhà đầu tư được hỏi ý kiến đã đồng ý (mean xấp xỉ 3,0) rằng BCTC hiện mang tính khuôn mẫu, thiếu linh hoạt, chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin đa dạng cho nhiều đối tượng; BCTC hiện chưa đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng thông tin hữu ích cho việc ra quyết định là do thông tin không phù hợp và không kịp thời. Không có sự khác biệt (mang ý nghĩa thống kê) trong ý kiến giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư (Sig. > 0.05).
Về Sửa đổi, bổ sung BCTC doanh nghiệp
Các doanh nghiệp và nhà đầu tư được hỏi ý kiến đã đồng ý (mean xấp xỉ 3,0) BCTC phải được lập phù hợp với quy mô và đặc thù doanh nghiệp; nên thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp, đồng thời quy định doanh nghiệp được lựa chọn hình thức BCTC phù hợp với quy mô và đặc thù doanh nghiệp; BCTC công ty cổ phần đại chúng hoặc niêm yết phải được công bố bắt buộc trên Website. Bên cạnh đó, có sự khác biệt (mang ý nghĩa thống kê) giữa ý kiến doanh nghiệp
- 96 -
và nhà đầu tư (Sig.<0.05) về việc công bố bắt buộc trên Website BCTC của công ty cổ phần đại chúng hoặc công ty niêm yết. Theo đó, mức độ đồng ý của doanh nghiệp thấp hơn đáng kể so với nhà đầu tư.
2.3.2.2. Ý kiến của chuyên gia
Để có điều kiện tiếp cận theo chiều sâu của vấn đề, cung cấp cơ sở tham khảo hữu ích trong nghiên cứu luận án, tác giả luận án đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia về kế toán và BCTC doanh nghiệp.
(a) Mục tiêu, nội dung, đối tượng, hình thức, thời gian thực hiện
Mục tiêu: tiếp cận theo chiều sâu của vấn đề, làm cơ sở hoặc củng cố cho nhận định, đề xuất về hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam.
Nội dung phỏng vấn:
- Đánh giá các vấn đề về khuôn mẫu lý thuyết cho BCTC, tính hữu ích của hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam;
- Hạn chế của hệ thống BCTC;
- Quan điểm về vấn đề linh hoạt và đa dạng hóa hệ thống BCTC; thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp; sử dụng giá trị hợp lý; trình bày nguồn lực tri thức và báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC.
Mẫu Phiếu Phỏng vấn được trình bày tại Phụ lục 09.
Đối tượng: 06 chuyên gia, bao gồm:
- 02 chuyên gia là lãnh đạo Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, Bộ Tài
chính;
- 02 chuyên gia đang nghiên cứu, giảng dạy kế toán doanh nghiệp và
BCTC doanh nghiệp bậc đại học và sau đại học;
- 01 chuyên gia là kiểm toán viên hành nghề, có bề dày kinh nghiệm về công tác kiểm toán BCTC doanh nghiệp;
- 01 chuyên gia là kế toán trưởng một công ty cổ phần quy mô lớn. Thông tin chi tiết về các chuyên gia được trình bày tại Phụ lục 10.
Hình thức: Phỏng vấn trực tiếp: 05 chuyên gia; thông qua Phiếu phỏng vấn:
- 97 -
01 chuyên gia.
Thời gian phỏng vấn: Tháng 05, 06 năm 2013.
(b) Kết quả phỏng vấn
Về Cơ sở tính giá, nguyên tắc, yêu cầu lập và trình bày BCTC; hệ thống báo cáo
Có 02/06 chuyên gia đồng ý, 04/06 chuyên gia đồng ý một phần về việc cơ sở định giá, nguyên tắc, yêu cầu soạn thảo và trình bày BCTC đã thống nhất và đồng bộ; hệ thống báo cáo, nội dung của BCTC hiện hành phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế.
Về tính hữu ích của BCTC
Có 03/06 chuyên gia đồng ý, 03/06 chuyên gia đồng ý một phần về việc thông tin trên BCTC hiện nay hữu ích để ra quyết định kinh tế.
Về hạn chế của hệ thống BCTC:
Có 04/06 chuyên gia đồng ý, 01/06 chuyên gia đồng ý một phần, 01/06 chuyên gia hoàn toàn đồng ý giá trị hợp lý được quy định và sử dụng còn rời rạc, chưa có hệ thống trong đánh giá các yếu tố của BCTC; hệ thống báo cáo, một số nội dung trên BCTC liên quan đến thị trường vốn, TTCK chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế.
Có 04/06 chuyên gia đồng ý, 02/06 chuyên gia hoàn toàn đồng ý BCTC còn mang tính khuôn mẫu, chưa linh hoạt để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin đa dạng cho nhiều đối tượng.
Về thống nhất một chế độ kế toán
Có 05/06 chuyên gia ủng hộ, 01/06 chuyên gia không ủng hộ việc thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp.
Về linh hoạt và đa dạng hóa BCTC theo quy mô, đặc thù doanh nghiệp
Có 05/06 chuyên gia ủng, 01/06 chuyên gia không ủng hộ việc linh hoạt và đa dạng hóa BCTC.
- 98 -
Về quy định báo cáo nguồn lực tri thức và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC trong 5 năm tới
Có 04/06 chuyên gia ủng hộ, 01/06 chuyên gia đề nghị cần thận trọng trên cơ sở tham khảo thông lệ quốc tế; 01/06 chuyên gia không có ý kiến.
Về các công việc cần làm trong ngắn hạn
Có 04/06 chuyên gia đề cập đến việc cập nhật nội dung các chuẩn mực kế toán; bổ sung, điều chỉnh VAS 1, VAS 21, xác định mục đích, đặc điểm chất lượng, hệ thống báo cáo phù hợp với thông lệ quốc tế; 02/06 chuyên gia đề cập đến việc ban hành lại chế độ kế toán doanh nghiệp và chế độ BCTC.
Về các công việc mang tính chất dài hạn
Có 04/06 chuyên gia đề cập đến việc ban hành lại hệ thống chuẩn mực BCTC Việt Nam (VFRS) áp dụng đầy đủ IFRS; 01/06 chuyên gia đề cập đến việc tinh giảm hệ thống BCTC theo kế toán Mỹ; 01/06 chuyên gia không có ý kiến về vấn đề này.
Như vậy, các chuyên gia cho rằng hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện hành cơ bản đã thống nhất, đồng bộ, từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế, hữu ích cho người sử dụng. Hạn chế chủ yếu nhất mà các chuyên gia đề cập là hệ thống báo cáo, một số nội dung trên BCTC, đặc biệt là nội dung có liên quan đến thị trường vốn, thị trường chứng khoán, chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế; hệ thống BCTC khuôn mẫu, thiếu tính linh hoạt.
Hầu hết các chuyên gia ủng hộ việc thống nhất một chế độ kế toán doanh nghiệp, trên cơ sở đó, hướng dẫn áp dụng về hình thức và nội dung BCTC phù hợp với quy mô và đặc thù kinh doanh. Các chuyên gia cũng ủng hộ việc quy định báo cáo nguồn lực tri thức và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên BCTC trong 05 năm tới.
- 99 -
2.3.3. Đánh giá thực trạng hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp
Những đánh giá về ưu điểm, hạn chế của hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện hành được thực hiện dựa trên cơ sở:
(1) Những luận điểm, quy định của các quốc gia và tổ chức có uy tín trên thế giới về hệ thống kế toán và BCTC, trong đó lấy quy định của IASB làm nền tảng;
(2) Kết quả đối chiếu h ệ thống BCTC theo quy định của Việt Nam với hệ thống BCTC theo quy định của IASB;
(3) Ý kiến của các doanh nghiệp, nhà đầu tư và các chuyên gia về hệ thống BCTC doanh nghiệp;
(4) Yêu cầu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán ở Việt Nam.
2.3.3.1. Ưu điểm
Hơn mười lăm năm qua, kế toán Việt Nam nói chung và hệ thống BCTC doanh nghiệp nói riêng đã có sự cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện; một trong những kết quả của quá trình đổi mới đó là sự hình thành một hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng cơ bản được yêu cầu của quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước. Điều này biểu hiện qua một số điểm chủ yếu sau :
Thứ nhất, Hệ thống BCTC doanh nghiệp nhìn chung được xây dựng trong môi trường pháp lý về kế toán cơ bản ổn định, đã khắc phục được rất nhiều hạn chế do sự chấp vá, thiếu đồng bộ của giai đoạn trước để lại.
Luật Kế toán ra đời tạo khung pháp lý cho hoạt động kế toán ở nước ta trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế. Luật đã thừa nhận hàng loạt các khái niệm, nguyên tắc kế toán và hoạt động của nền kinh tế thị trường…, và đã xác định "Báo cáo tài chính được lập theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dùng để tổng hợp và thuyết minh về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán”. Sự ra đời của 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam cùng với các hướng dẫn thực hiện chuẩn mực, được tổng kết trong chế độ kế toán doanh
- 100 -
nghiệp ban hành theo quyết định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006, tiếp tục được bổ sung bằng thông tư 161/2007/TT-BTC năm 2007 và thông tư số 244/2009/TT-BTC năm 2009 là những biểu hiện cụ thể về sự đồng bộ của hệ thống kế toán Việt Nam nói chung và hệ thống BCTC doanh nghiệp nói riêng.
Thứ hai, hệ thống BCTC doanh nghiệp từng bước tiếp cận và hòa hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế.
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, hệ thống kế toán Việt Nam tiếp tục được cải cách theo hướng hòa hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế. Dấu ấn cho quá trình này là sự ra đời của hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam, được xây dựng chủ yếu dựa trên hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS). Theo đó, mục đích của BCTC được xác định là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng cho số đông người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Các vấn đề về nguyên tắc lập và trình bày BCTC, hệ thống báo cáo, nội dung cơ bản của báo cáo nhìn chung cũng được xây dựng hướng đến việc tiếp cận với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế về lập và trình bày BCTC. Nói cách khác, hòa hợp với thông lệ quốc tế về lập và trình bày BCTC là mục tiêu và xu thế tất yếu của Việt Nam trong quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống kế toán hiện nay.
- Thứ ba, hệ thống BCTC hiện hành cơ bản phù hợp và đáp ứng sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, với yêu cầu và trình độ quản lý kinh tế, tài chính cho từng loại hình doanh nghiệp Việt Nam.
BCTC hiện không phải chủ yếu phục vụ cho Nhà nước mà là nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho các nhà đầu tư, các ngân hàng, chủ nợ, đối tác và công chúng; thông tin về luồng tiền trở thành một thông tin quan trọng trên BCTC, thể hiện sức khỏe về tài chính của doanh nghiệp; các đối tượng và giao dịch của nền kinh tế thị trường được phản ánh khá đầy đủ trên BCTC… Những điều này, như thư của Bộ trưởng Bộ Tài chính gửi Đại hội IV Hội Kế toán kiểm toán Việt Nam, “đã góp phần tích cực vào tạo lập môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh lành mạnh,
- 101 -
hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp trong nâng cao chất lượng quản trị kinh doanh”.
- Thứ tư, hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện hành nhìn chung khá dễ hiểu, dễ thực hiện.
Phương pháp lập BCTC doanh nghiệp hiện hành được hướng dẫn khá chi tiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện. Các chỉ tiêu trên BCTC không quá phức tạp. Nhiều vấn đề liên quan đến nguồn lực tài chính, tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí … được thuyết minh khá đầy đủ trong Bản thuyết minh BCTC, đáp ứng cơ bản nhu cầu của các đối tượng sử dụng.
2.3.3.2. Hạn chế
Như đã trình bày ở trên, việc cải cách hệ thống kế toán nói chung và hệ thống BCTC doanh nghiệp nói riêng ở Việt Nam đến nay đã đạt được những thành quả đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, cũng bộc lộ những hạn chế cần được nghiên cứu, đánh giá một cách cụ thể nhằm xác định phương hướng và giải pháp cho con đường đổi mới và hoàn thiện hệ thống BCTC doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Những hạn chế của hệ thống BCTC doanh nghiệp Việt Nam hiện hành đề cập dưới đây được đo lường không chỉ trên cơ sở của thực trạng, mà còn trên cơ sở những yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán ở Việt Nam.
Thứ nhất, cơ sở định giá, đặc điểm chất lượng và nguyên tắc lập BCTC chưa được quy định rõ ràng và đầy đủ, thiếu tính đồng bộ. Nhiều nội dung của Luật Kế toán có liên quan đến BCTC đã không còn phù hợp.
- Giá trị hợp lý được quy định và sử dụng một cách rời rạc, chưa có hệ thống trong đánh giá và ghi nhận các yếu tố của BCTC.
Trong IAS/IFRS, giá trị hợp lý được sử dụng ngày càng nhiều trong trong định giá và ghi nhận các yếu tố của BCTC. Cuộc họp tháng 09/2009 tại Mỹ, nhóm các nước G-20 đã xác nhận lại cam kết thúc đẩy việc hội tụ hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) trong đó có đề cập đến việc sử dụng giá trị hợp lý như một cơ sở định giá chủ yếu nhằm tăng cường tính đáng tin cậy và thích hợp của