Theo Quan Điểm Của Hội Đồng Chuẩn Mực Kế Toán Quốc Tế Iasb (2008)


đặc biệt là thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra các luồng tiền và các khoản tương đương tiền.

2.1.3 Chất lượng BCTC

Nhóm tác giả Biddle, Hilary, and Verdi (2009) cho rằng chất lượng báo cáo tài chính là độ chính xác mà báo cáo tài chính truyền tải thông tin về tình hình hoạt động của công ty, đặc biệt là dòng tiền kỳ vọng của công ty thông báo cho các cổ đông. Thêm vào đó, tác giả (Johnson, Khurana, & Reynolds, 2002); Whittington (2008) cũng cho rằng mục tiêu của báo cáo tài chính là để thông báo cho các nhà đầu tư trong việc đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý và trong việc đánh giá các dòng tiền của công ty. Báo cáo tài chính phải được hiểu rò ràng, trình bày không nên gây hiểu lầm hoặc không rò ràng. Người dùng có thể hiểu được những thông tin được trình bày mà không cần nỗ lực quá mức. Để đạt được điều này, các báo cáo hàng năm nên công bố thông tin đầy đủ, tính minh bạch cao hơn.

Báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin đáng tin cậy để hỗ trợ người sử dụng trong quá trình ra quyết định. Các báo cáo công bố thông tin có liên quan, đáng tin cậy, có thể so sánh và dễ hiểu (Kamaruzaman, Mazlifa , & Maisarah 2009).

Tuy nhiên, Johnson (2005) lập luận rằng một báo cáo hàng năm không thể không có sai lệch, vì các hiện tượng kinh tế được trình bày trong các báo cáo hàng năm thường được đo trong điều kiện không chắc chắn, nhiều ước lượng và giả định được đưa vào báo cáo. Vì vậy, một mức độ chính xác nhất định là cần thiết để ra quyết định hữu ích, điều quan trọng là phải kiểm tra các đối số cung cấp cho các ước tính khác nhau và giả định trong báo cáo thường niên (Jonas & Blanchet, 2000). Nếu đối số hợp lệ được cung cấp cho các giả định và thực hiện dự toán, chúng có khả năng đại diện cho các hiện tượng kinh tế không sai lệch. Các thông tin kế toán đáng tin và người dùng có thể phụ thuộc vào nó để đánh giá các điều kiện kinh tế. Tính xác thực ở đây mang tính chất trung lập, đại diện và kiểm chứng được. Chất lượng của các báo cáo tài chính là vấn đề lợi ích giữa các cơ quan quản lý, các cổ đông, các nhà nghiên cứu và các nghiệp vụ kế toán riêng của mình. Điều này là do thực tế rằng báo cáo tài chính đã là một phương tiện chính của giao tiếp thông

tin tài chính đến bên ngoài (Johnson et al., 2002).


Nhóm tác giả Van Beest, Braam, and Boelens (2009) cho rằng mục tiêu chính của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin liên quan có chất lượng cao đến các tổ chức kinh tế, tài chính, hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế. Ngoài ra cung cấp các thông tin báo cáo tài chính chất lượng cao là rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc cung cấp vốn với các bên liên quan trong việc đầu tư, tín dụng, các quyết định phân bổ nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh kế. Một báo cáo tài chính có chất lượng cao sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư (Healy & Palepu, 2001)

Tiêu chuẩn đánh giá và đo lường chất lượng báo cáo tài chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Hiện nay, chưa có một tiêu chuẩn cụ thể hay một kết quả nghiên cứu được công nhận rộng rãi về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng BCTC. Tuy nhiên, để có thể đưa ra tiêu chuẩn đánh giá chất lượng BCTC, luận văn xem xét góc độ các đặc điểm của thông tin hữu ích làm thước đo đánh giá chất lượng BCTC

2.2 Chất lượng thông tin BCTC công bố

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại thành phố Hồ Chí Minh - 5

2.2.1 Theo quan điểm của hội đồng chuẩn mực Kế toán quốc tế IASB (2008)

Đánh giá chất lượng của TTBCTC dựa vào tiêu chí: Có thể hiểu được, thích hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh được.

- Có thể hiểu được: Người đọc được giả thuyết là có một kiến thức nhất định về kinh tế, kinh doanh, kế toán và có thiện chí, nổ lực để đọc BCTC. Tuy nhiên, thông tin về một vấn đề phức tạp nhưng cần thiết cho việc ra quyết định không được loại trừ khỏi BCTC chỉ vì nó khó hiểu đối với một số đối tượng sử dụng.

- Thích hợp: Thông tin hữu ích khi nó thích hợp với nhu cầu đưa ra quyết định của người sử dụng. Thông tin thích hợp khi nó có thể giúp người đọc đánh giá quá khứ, hiện tại hoặc tương lai, xác nhận, điều chỉnh các đánh giá trước đó. Tính thích hợp bao gồm tính dự đoán và tính xác nhận, hai đặc điểm này quan trọng với nhau. Tính thích hợp của thông tin phụ thuộc vào nội dung và tính trọng yếu. Thông tin được coi là trọng yếu khi sự sai lệch hay bỏ sót nó có thể gây ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào số tiền và thông tin hoặc sai sót hay tự đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Trọng yếu không phải là một tiêu chuẩn chất lượng mà là một ngưỡng phân biệt.

- Đáng tin cậy: Đáng tin cậy nghĩa là không có sai sót trọng yếu và không bị thiên lệch, đồng thời phản ánh trung thực vấn đề cần trình bày. Thông tin có thể


thích hợp nhưng không đáng tin cậy. Đáng tin cậy bao gồm các yêu cầu: Trình bày trung thực, nội dung quan trọng hơn hình thức, không thiên lệch, thận trọng và đầy đủ.

- Có thể so sánh được: BCTC chỉ hữu ích khi có thể so sánh với năm trước, với doanh nghiệp khác. Để có thể so sánh được, BCTC phải: Áp dụng nguyên tắc kế toán nhất quán, khai báo về chính sách kế toán sử dụng trên BCTC.

Tuy nhiên, từ tháng 09/2010, cùng với xu hướng hội tụ kế toán của các tổ chức kế toán quốc tế, quan điểm của IASB về chất lượng thông tin BCTC có thay đổi hơn trước, cụ thể: Đặc điểm cơ bản của thông tin BCTC hữu ích là các thông tin thích hợp và được trình bày trung thưc. Ngoài ra, các đặc điểm nâng cao của thông tin tài chính hữu ích là có thể so sánh được, kiểm chứng được, kịp thời và dễ hiểu. Trong đó, các đặc điểm cơ bản về chất lượng TTBCTC hữu ích được diễn giải như sau:

- So sánh: Người sử dụng thông tin có thể so sánh các thông tin tương tự với đơn vị khác hoặc các thông tin tương tự của đơn vị giữa các kỳ và các ngày khác nhau. Khả năng so sánh không liên quan đến một khoản mục đơn lẻ mà yêu cầu ít nhất là hai khoản mục.

- Kiểm chứng: Là khả năng mà những người sử dụng BCTC có kiến thức và độc lập khác nhau có thể nhất trí rằng một mô tả cụ thể đáng tin cậy. Thông tin định lượng không nhất thiết chỉ là một mô tả cụ thể mà là một loạt giá trị và khả năng liên quan có thể được kiểm chứng. Kiểm chứng giúp đảm bảo cho những người sử dụng BCTC là thông tin về giao dịch kinh tế được trình bày trung thực và đúng mục đích.

- Kịp thời: Thông tin luôn sẳn có để giúp những người sử dụng BCTC kịp đưa ra các quyết định. Thông thường, những thông tin cũ thường kém hữu ích hơn, tuy nhiên một số thông tin vẫn có tính kịp thời sau khi kết thúc kỳ báo cáo một thời gian. Ví dụ người sử dụng BCTC có thể sử dụng thông tin trong quá khứ để xác định và đánh giá các định hướng.

- Dể hiểu: Thông tin được phân loại và trình bày đặc trưng một cách rò ràng và chính xác.


2.2.2Theo quan điểm của Hội đồng chuẩn mực Kế toán tài chính Mỹ (FASB) Chất lượng của TTBCTC được đánh giá qua các đặc điểm: Tính phù hợp, tính đáng tin cậy và khả năng so sánh được.

- Tính phù hợp (tính thích hợp): Thông tin kế toán là thích hợp khi nó có khả năng thay đổi quyết định của người sử dụng. Để đảm bảo tính thích hợp, thông tin phải: Có giá trị dự đoán hay đánh giá và tính kịp thời.

- Tính đáng tin cậy: Thông tin kế toán đáng tin cậy trong phạm vi nó có thể kiểm chứng, khi được trình bày trung thực và không có sai sót hoặc thiên lệch. Thông tin kế toán đáng tin cậy khi:

- Có thể kiểm chứng: Thông tin có thể kiểm chứng khi một người khác (có đủ năng lực và tính độc lập) kiểm tra trên cùng một bằng chứng, tài liệu hoặc dữ liệu sẽ đưa ra kết luận hoặc kết quả tương tự nhau. Chú ý rằng có thể kiểm chứng chỉ có nghĩa khi kết quả được phản ánh chính xác chứ không có ý nghĩa là phương pháp thích hợp.

- Khả năng so sánh được: Thông tin kế toán phải được đo lường và báo cáo theo cùng một phương thức để có thể so sánh được giữa các doanh nghiệp. Cùng với xu hướng hội tụ kế toán thì từ tháng 09/2010, quan điểm đánh giá chất lượng thông tin BCTC của FASB cũng tương tự như IASB.

2.2.3 Quan điểm hội tụ IASB – FASB

Dự án hội tụ IASB và FASB được tiến hành năm 2004 đã xác định hai đặc tính chất lượng cơ bản, bốn đặc tính chất lượng bổ xung và hai hạn chế.

Đặc điểm chất lượng cơ bản

- Thích hợp: Thông tin thích hợp là thông tin giúp người sử dụng có thể thay đổi quyết định thông qua việc giúp họ: Cung cấp đầu vào cho quá trình dự đoán triển vọng tương lai, xác nhận hoặc điều chỉnh các đánh giá trước đó.

- Trình bày trung thực: Thông tin trên báo cáo tài chính phải trung thực về các hiện tượng kinh tế muốn trình bày. Cụ thể:

- Đầy đủ: Nghĩa là phải bao gồm mọi thông tin cần thiết để trình bày trung thực mọi hiện tượng kinh tế muốn trình bày

- Trung lập: Nghĩa là không bị sai lệch một cách có chủ đích để đạt một kết quả dự định trước hoặc ảnh hưởng lên quyết định theo một hướng đặc biệt nào đó.


- Không có sai lệch trọng yếu Các đặc điểm chất lượng bổ sung

- Có thể so sánh: Là yêu cầu thông tin phải giúp người sử dụng có thể nhận thấy sự khác biệt và tương tự giữa hai hiện tượng kinh tế. Muốn vậy, phải sử dụng nhất quán phương pháp và thủ tục kế toán qua các kỳ và trong cùng kỳ

- Có thể kiểm chứng: Là thông tin đạt được mức đồng thuận giữa các người sử dụng có kiến thức và độc lập về các mặt: Thông tin trình bày trung thực về hiện tượng kinh tế muốn trình bày mà không có sai sót hay thiện lệch trọng yếu, các phương pháp ghi nhận hay đánh giá đã chọn không có sai sót hay thiên lệch một cách trọng yếu

- Tính kịp thời: Thông tin có được cho người ra quyết định trước khi nó mất khả năng ảnh hưởng tới quyết định

- Có thể hiểu được: Liên quan tới việc phân loại, diễn giải và trình bày một cách rò ràng, xúc tích

Các hạn chế giới hạn của chất lượng thông tin

- Trọng yếu: Thông tin nếu có sai sót hoặc trình bày sai nếu ảnh hưởng tới quyết định của người ra quyết định thì sẽ được coi là thông tin trọng yếu. Trọng yếu được xem là giới hạn vì nó ảnh hưởng tới tất cả các đặc điểm chất lượng thông tin

- Chi phí: Lợi ích của báo cáo tài chính phải biện minh được cho các chi phí của việc lập báo cáo tài chính trên cả hai phương diện định lượng và định tính

2.2.4 Quan điểm của Chuẩn mực kế toán Việt Nam – VAS

- Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, đặc tính chất lượng thông tin được trình bày ở nội dung “Các yêu cầu cơ bản đối với kế toán” bao gồm: (Bộ tài chính, 2002)

- Trung thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

- Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo.

- Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan tới kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót.


- Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được trậm trễ.

- Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính phải rò ràng , dễ hiểu đối với người sử dụng. Thông tin về những vấn đề phức tạp trong báo cáo tài chính phải được giải trình trong phần thuyết minh.

- Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán cần được tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng báo cáo tài chính có thể so sánh và đánh giá.

2.2.5 Tổng hợp đặc tính chất lượng TTKT từ các quan điểm trên

Mặc dù có một số khác biệt và tranh luận nhất định về các đặc tính chất lượng TTKT trình bày trên BCTC nhưng tất cả các quan điểm đó đều nhằm hướng đến một mục đích là thúc đẩy và nâng cao chất lượng TTKT. Do đó, luận văn đã tổng hợp lại các đặc tính chất lượng TTKT theo các quan điểm và lựa chọn đặc tính chất lượng kế toán của IASB để làm cơ sở nghiên cứu như sau:

So sánh: Người sử dụng thông tin có thể so sánh các thông tin tương tự với đơn vị khác hoặc các thông tin tương tự của đơn vị giữa các kỳ và các ngày khác nhau. Khả năng so sánh không liên quan đến một khoản mục đơn lẻ mà yêu cầu ít nhất là hai khoản mục.

Kiểm chứng: Là khả năng mà những người sử dụng BCTC có kiến thức và độc lập khác nhau có thể nhất trí rằng một mô tả cụ thể đáng tin cậy. Thông tin định lượng không nhất thiết chỉ là một mô tả cụ thể mà là một loạt giá trị và khả năng liên quan có thể được kiểm chứng. Kiểm chứng giúp đảm bảo cho những người sử dụng BCTC là thông tin về giao dịch kinh tế được trình bày trung thực và đúng mục đích.

Kịp thời: Thông tin luôn sẳn có để giúp những người sử dụng BCTC kịp đưa ra các quyết định. Thông thường, những thông tin cũ thường kém hữu ích hơn, tuy nhiên một số thông tin vẫn có tính kịp thời sau khi kết thúc kỳ báo cáo một thời gian. Ví dụ người sử dụng BCTC có thể sử dụng thông tin trong quá khứ để xác định và đánh giá các định hướng.

Dể hiểu: Thông tin được phân loại và trình bày đặc trưng một cách rò ràng và chính xác.


2.3 Nguyên tắc lập một BCTC

Theo chuẩn mực kế toán số 21, lập một BCTC theo các nguyên tắc sau:

- Hoạt động liên tục: Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rò. Nếu báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được nêu rò, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục. Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.

- Cơ sở dồn tích: Doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền. Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho phép ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán những khoản mục không thoả mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.

- Nhất quán: Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi: Có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu


có sự thay đổi trong việc trình bày. Doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác định rò ràng. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin mang tính so sánh cho phù hợp với các quy định của đoạn 30 và phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.

- Trọng yếu và tập hợp: Từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng. Khi trình bày báo cáo tài chính, một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của các khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Để xác định một khoản mục hay một tập hợp các khoản mục là trọng yếu phải đánh giá tính chất và quy mô của chúng. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản mục có thể là yếu tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá trị của khoản mục là rất lớn. Tuy nhiên, các khoản mục quan trọng có tính chất hoặc chức năng khác nhau phải được trình bày một cách riêng rẽ. Nếu một khoản mục không mang tính trọng yếu, thì nó được tập hợp với các khoản đầu mục khác có cùng tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc trình bày trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có tính trọng yếu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/07/2022