Jermakowicz và Gornik-Tomaszewski [116], Jones và Higgins [117], Joshi và Ramadhan [118], Larson và Street [122], Uyar và cộng sự [178]. Các nghiên cứu này sử dụng bảng câu hỏi điều tra để ghi nhận mức độ các công ty tuân theo IFRS thông qua thang đo danh nghĩa “Có” hay “Không” để đánh giá công ty có vận dụng một chuẩn mực nào đó hay không. Qua đó, một chỉ số (Index) tổng hợp được tính toán cho từng công ty trên cơ sở tổng số chuẩn mực đã sử dụng so với tổng số chuẩn mực đã công bố. Cách tiếp cận này đơn giản vì người trả lời không mất nhiều thời gian để trình bày chi tiết việc sử dụng từng chuẩn mực tại đơn vị. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của cách tiếp cận là thông tin về vận dụng chuẩn mực rất chung, không đánh giá cụ thể sử dụng các nguyên tắc đo lường và công bố thông tin trong thực tiễn như thế nào. Do đó, một chỉ số xây dựng cũng mới hàm ý chuẩn mực nào được sử dụng và thông tin chưa đủ tin cậy để đánh giá vận dụng chuẩn mực.
Cách tiếp cận thứ hai cũng hướng đến việc xây dựng chỉ số tổng hợp nhưng dựa trên thông tin từ báo cáo tài chính hàng năm của các công ty [50] [64] [83]
[152] [88]. Thông qua việc cho điểm đối với việc vận dụng từng nguyên tắc trong chuẩn mực kế toán, thể hiện qua trình bày trên BCTC; một chỉ số tổng hợp được xây dựng để thể hiện mức độ vận dụng chuẩn mực tại một doanh nghiệp. Cách tiếp cận này do vậy bao quát đầy đủ hơn thông tin về vận dụng một chuẩn mực nào đó, có tính tin cậy cao hơn khi đánh giá vận dụng chuẩn mực. Theo cách tiếp cận thứ hai, chỉ số đo lường được xây dựng theo hai trường hợp: chỉ số đo lường không có trọng số và chỉ số đo lường có trọng số.
Chỉ số đo lường không có trọng số được xác định như sau:
I= Tổng số chỉ mục đã công bố Tổng số chỉ mục cần được công bố
Một chỉ mục (liên quan đến nội hàm chuẩn mực kế toán) được công bố trên báo cáo tài chính sẽ nhận giá trị 1 và nếu không được công bố sẽ nhận giá trị 0. Trị số I lớn nhất bằng 1 và nếu giá trị I càng lớn thể hiện mức độ vận dụng chuẩn mực kế toán càng lớn. Cách tiếp cận này cũng có hạn chế là chưa phân tích sâu được nội hàm, chất lượng của từng nội dung về vận dụng chuẩn mực kế toán như thế nào. Doanh nghiệp vận dụng một nguyên tắc thuộc một chuẩn mực kế toán nào đó ở một
mức độ đơn giản cũng như một DN vận dụng nguyên tắc đó ở mức độ phức tạp hơn do đặc thù của ngành nghề và nhiều lý do khác. Do vậy, đo lường chỉ số có trọng số được đề xuất thay thế cho đo lường không có trọng số.
Khác với đo lường không có trọng số, trong đo lường có trọng số, người phân tích phải cho điểm đối với từng chỉ mục liên quan đến việc vận dụng chuẩn mực theo mức độ: doanh nghiệp đó sử dụng từ đơn giản đến phức tạp. Cách tính toán chỉ số này phức tạp hơn nhưng cung cấp một chỉ số đầy đủ nhất về việc vận dụng chuẩn mực kế toán.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu việc vận dụng chuẩn mực kế toán – trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Gia Lai - 2
- Cơ Sở Lý Thuyết Và Thực Tiễn Việc Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán Trong Các Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Đặc Điểm Hệ Thống Chuẩn Mực Kế Toán Việt Nam
- Ảnh Hưởng Của Văn Hóa Đối Với Kế Toán ( Nguồn: Gray [95])
- Bảng Tổng Hợp Một Số Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán
- Tổng Hợp Nghiên Cứu Trong Nước Về Vận Dụng Chuẩn Mực Kế Toán
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
1.2. Các lý thuyết liên quan đến vận dụng chuẩn mực kế toán trong các doanh nghiệp
1.2.1. Lý thuyết tính hữu ích của thông tin và ra quyết định
Lý thuyết tính hữu ích của thông tin và ra quyết định (Decision – usefulness theory) do Staubus [162] đề xuất được xem là nền tảng của việc vận dụng chuẩn mực kế toán trong các doanh nghiệp khi BCTC trước đó bị chỉ trích là cung cấp quá ít thông tin cho các đối tượng sử dụng trong việc ra quyết định dẫn đến việc ra quyết định có thể sai lầm. Lý thuyết tính hữu ích của thông tin và ra quyết định để phục vụ cho việc xây dựng CMKT quốc tế, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng thông tin cho ra quyết định của các đối tượng. Kế toán ở mỗi doanh nghiệp là quá trình thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho các bên có liên quan cho việc ra quyết định. Chuẩn mực kế toán ban hành trong phạm vi mỗi quốc gia hay trên toàn cầu đều nhằm đảm bảo tính so sánh, tin cậy, tính liên quan đối với người sử dụng thông tin kế toán. Ở góc độ đó, khi việc ra quyết định dựa trên thông tin thì lý thuyết này là nền tảng cho việc vận dụng chuẩn mực kế toán ở các doanh nghiệp.
Do điều kiện phát triển và môi trường kinh tế khác nhau mà các bên có liên quan cũng có những khác biệt nhất định, nhưng về cơ bản gồm có nhà đầu tư, người cung cấp tín dụng, người lao động, cơ quan nhà nước và các bên có liên quan khác. Hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp luôn gắn với lợi ích các bên và có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Xuất phát từ cơ sở đó, lý thuyết tính hữu ích và ra quyết định có thể giải thích tại sao các doanh nghiệp vận dụng chuẩn mực kế toán khi thông tin từ BCTC có ích lợi cho người bên ngoài. Theo Staubus [164]; Sharma và
Iselin [156], lý thuyết này trở thành nền tảng cho việc công bố thông tin và việc ứng dụng nó giữ vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển kế toán tài chính và thiết lập chuẩn mực kế toán ở các nước phát triển. Lý thuyết này đã được giới học thuật ủng hộ qua các nghiên cứu của Sterling [169], Ijiri [114], Solomons [170], Laffond [121], Staubus [163], Cartney [68], Henderson [104] và Godfrey và cộng sự [94]. Gray & cộng sự [97] sử dụng lý thuyết thông tin hữu ích để chứng minh rằng báo cáo kế toán phải cung cấp thông tin có ích để người sử dụng thông tin đưa ra những quyết định nhằm đạt được mục đích của họ, do vậy việc xác định đối tượng và nhu cầu sử dụng thông tin là vấn đề trọng yếu trong việc cung cấp BC kế toán. Ploybut [143] sử dụng lý thuyết thông tin hữu ích để giải thích đối tượng và nhu cầu sử dụng thông tin giữa doanh nghiệp niêm yết lớn và DNNVV là khác nhau.
Lý thuyết tính hữu ích của thông tin và ra quyết định giải thích kế toán là một quá trình cung cấp thông tin cho người ra quyết định. Tính hữu ích của thông tin được đánh giá thông qua mức độ thông tin có thể hỗ trợ cho các đối tượng sử dụng trong việc ra quyết định. Cần xác định ai là đối tượng chính sử dụng thông tin kế toán, nhu cầu thông tin của họ là gì để từ đó xây dựng hệ thống CMKT phù hợp nhất, giúp doanh nghiệp cung cấp thông tin cần thiết nhất đến đúng đối tượng, hỗ trợ các đối tượng sử dụng thông tin ra quyết định. Các quy định đưa ra cần quan tâm đến tính thích hợp, tính hiệu quả và tính khả thi, hướng đến mục tiêu cuối cùng là mang lại thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng.
Ở góc độ ban hành các chuẩn mực kế toán, lý thuyết này là cơ sở để cơ quan ban hành các chuẩn mực kế toán xác định một nhu cầu thông tin có tính chất chung nhất, đảm bảo tính hữu ích của thông tin. Qua đó thiết lập các nguyên tắc chung để các doanh nghiệp thực hiện quá trình xử lý và công bố thông tin. Thực tiễn quá trình soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế toán quốc tế cho thấy, nếu các thành viên của ban soạn thảo từ phía ngân hàng, hay ủy bản chứng khoán chiếm đa số thì thông thường, các yêu cầu về đo lường và công bố thông tin hướng đến các nhóm đối tượng này. Ở các nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung trước đây, mà Việt Nam hay Trung Quốc là những điển hình. Hệ thống kế toán thường hướng đến cung cấp thông tin cho các cơ quan chính phủ hơn là phục vụ cho người sử dụng
bên ngoài. Điều này cũng được xem là hợp lý khi thông tin phục vụ chủ yếu cho việc điều hành vĩ mô của nhà nước trong bối cảnh các nguồn lực được kế hoạch hóa tập trung.
Ở góc độ các đơn vị kế toán (các doanh nghiệp), lý thuyết này là cơ sở để các doanh nghiệp vận dụng chuẩn mực kế toán và công khai thông tin tài chính cho các bên có liên quan. Thông tin có tính so sánh, tính tin cậy sẽ đảm bảo được tính hữu ích của thông tin và là cơ sở để ra quyết định; có ảnh hưởng lớn đến người sử dụng, là động lực để các doanh nghiệp chủ động vận dụng chuẩn mực kế toán.
Tuy nhiên, nhìn nhận vấn đề này ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa có khác biệt với các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp này có mục tiêu, động cơ và mục đích khác. Về lý thuyết, người sử dụng thông tin của các DN này không khác biệt lớn với các DN có qui mô lớn, yết giá trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, do không được niêm yết nên cơ hội tiếp cận thông tin BCTC của các nhà đầu tư ít hơn, mà người tiếp cận chủ yếu là cơ quan thuế hoặc các ngân hàng thương mại mà DN có mối quan hệ tín dụng. Chính vì những hạn chế như vậy nên đã tác động đến việc vận dụng các chuẩn mực kế toán. Ngay tại Anh, một quốc gia thuộc mô hình kế toán Anglo-Saxson thì kết quả một điều tra do Collis và Jarvis [72] thực hiện ở 382 doanh nghiệp đã cho thấy người sử dụng BCTC ở các DNNVV tại Anh là cơ quan thuế, ngân hàng và bản thân chủ sở hữu – người quản lý. Việc tách biệt giữa người chủ và người quản lý không phải là phổ biến. Chính người làm kế toán được xem là người có ảnh hưởng lớn đến việc có vận dụng chuẩn mực kế toán hay không. Joshi và Ramadhan [118] và Martin [127] cho rằng đối với các DN nhỏ thì tìm kiếm người kế toán có kỹ năng hiểu và vận dụng chuẩn mực kế toán rất khó khăn. Trong một nghiên cứu ở Việt Nam, Đặng Đức Sơn và cộng sự [78] [79] còn cho rằng việc vận dụng chuẩn mực kế toán một cách đầy đủ thực sự là gánh nặng chi phí đối với các doanh nghiệp nhỏ và phần chi phí đó không được bù đắp từ các lợi ích mà người sử dụng nhận được từ thông tin kế toán.
Đặc thù của hệ thống CMKT Việt Nam là được ban hành bởi các cơ quan thuộc Chính phủ nên đang chú trọng nhiều hơn đến đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà nước mà chưa chú trọng nhiều đến nhu cầu thông tin của các bên liên quan
khác. Đối tượng sử dụng thông tin của DNNVV cũng chưa được quy định trong bất kì văn bản pháp quy nào về kế toán. Vậy trên thực tế đối tượng sử dụng thông tin kế toán của DNNVV nhiều nhất và thường xuyên nhất có phải là cơ quan quản lý nhà nuước hay không, bản thân DNNVV có nhận thức được vấn đề này hay không?
Lý thuyết tính hữu ích của thông tin và ra quyết định cũng được tác giả đưa vào luận án sử dụng để xác định đối tượng phỏng vấn chuyên sâu, để xem xét, giải thích mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí khi vận dụng chuẩn mực kế toán cho DNNVV, cũng là cơ sở để tác giả thiết lập mối liên hệ giữa các nhân tố tác động đến đối tượng và nhu cầu sử dụng thông tin BCTC trong việc vận dụng CMKT ở các DNNVV. Tiếp cận dựa trên lý thuyết về tính hữu ích của thông tin để lập luận tại sao các doanh nghiệp cần phải vận dụng CMKT, giải thích trực tiếp về tầm quan trọng của việc vận dụng CMKT trong các DNNVV.
1.2.2. Lý thuyết các bên liên quan
Thuật ngữ các bên có liên quan (stakeholders) có nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa đầu tiên về bên có liên quan là những nhóm (cá nhân, tổ chức) mà không có sự hỗ trợ của nhóm thì doanh nghiệp sẽ dừng hoạt động [131]. Các bên có liên quan còn được định nghĩa là những cá nhân hay tổ chức có ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng khi tổ chức đạt được mục tiêu của mình [89]. Như vậy, khái niệm về các bên có liên quan là một khái niệm rộng, nên lý thuyết về các bên có liên quan nói chung sẽ tập trung vào các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội [80].
Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory) được Freeman Edward sử dụng lần đầu tiên năm 1984 [89], trong tác phẩm quản trị chiến lược với nội hàm về đạo đức kinh doanh và quản lý công ty, khẳng định sự tồn tại của các doanh nghiệp cần đén sự hỗ trợ của các bên liên quan. Chính các doanh nghiệp sẽ phải có những hoạt động hoặc thay đổi phù hợp tìm kiếm sự hỗ trợ đó. Theo đó, hoạt động của DN hướng đến mục tiêu hàng đầu là tối đa hóa tài sản của chủ sở hữu nhưng cần được thực hiện dựa trên nhu cầu, lợi ích và quan điểm của nhiều bên khác nhau. Các bên liên quan bao gồm: ngân hàng, cổ đông, ... Theo Craig Deegan (2000), các bên liên quan có khả năng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc kiểm soát các nguồn tài nguyên của công ty. Vì vậy, cần đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên. Ở khía cạnh
quản lý, lý thuyết này quan tâm đến sự khác nhau về quyền lực của bên có liên quan và ảnh hưởng của nó đến cách ứng xử của doanh nghiệp để đáp ứng kỳ vọng của các bên có liên quan [80]. Nghĩa là, các bên có liên quan sẽ ảnh hưởng đến các chính sách, như chính sách về công bố thông tin ở các cấp độ khác nhau để các bên có liên quan có quyền lực cao hơn có thể sử dụng khi ra quyết định [51] [65]. Điều này tạo ra sự khác nhau về sức mạnh của các bên có liên quan đối với người quản lý ở các DN trong thực thi các chính sách của mình đối với các nguồn lực cần thiết để vận hành thành công doanh nghiệp [131].
Lý thuyết các bên liên quan được vận dụng ở nhiều lĩnh vực của khoa học quản trị, trong đó có lĩnh vực kế toán. Việc vận dụng chuẩn mực kế toán cũng nhằm đáp ứng lợi ích của các bên có liên quan, như: nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp….vì những đối tượng này cung cấp nguồn lực hữu hình hoặc vô hình để đảm bảo sự tồn tại của bất kỳ DN nào. Các nguồn lực đó, có thể là nguồn lực tài chính (bên liên quan là cổ đông), môi trường hoạt động và dịch vụ công (bên liên quan là cơ quan chính phủ), sức lao động (bên liên quan là nhân viên) … Vì vậy, doanh nghiệp có trách nhiệm vận dụng chuẩn mực kế toán để giải trình, cung cấp thông tin giải thích về hoạt động kinh doanh của DN cho các bên liên quan, thay vì chỉ cung cấp thông tin cho người quản lý.
Ở các nền kinh tế chuyển đổi mà Trung Quốc là một điển hình, hệ thống kế toán có những đặc thù riêng, bao gồm Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán và cả Chế độ kế toán. Nhà nước (Bộ Tài Chính) là tổ chức ban hành các văn bản pháp lý này và để đảm bảo việc quản lý tập trung thống nhất, các DN trong nền kinh tế ngoài việc vận dụng chuẩn mực còn phải vận dụng chế độ kế toán (Chế độ chứng từ, hệ thống tài khoản kế toán thống nhất và cách hạch toán). Hiện tượng này cũng được giải thích ở góc độ lý thuyết các bên có liên quan với bên liên quan có ảnh hưởng nhất là Nhà nước. Đó là cách thức để đảm bảo quản lý tập trung các hoạt động của nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Bản thân doanh nghiệp khi áp dụng CMKT, không chỉ coi kế toán như một công cụ quản lý mà cần lưu ý rằng thông tin đó được cung cấp cho nhiều đối tượng khác nhau. Khi công bố thông tin cũng cần xem xét tính hữu ích, đáp ứng yêu cầu
của các đối tượng sử dụng. Doanh nghiệp luôn cần cập nhật với những thay đổi của các quy định của nhà nước, lại luôn tự điều chỉnh mức độ tự nguyện công bố thông tin cho phù hợp với lợi ích của các bên liên quan trong những bối cảnh cụ thể khác nhau. Với sự hạn chế về nguồn lực nên trong quá trình áp dụng CMKT doanh nghiệp phải luôn cân nhắc mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích, từ đó quyết định cung cấp những thông tin gì, cung cấp như thế nào.
Giải thích việc vận dụng chuẩn mực kế toán trên phương diện lý thuyết không thể tách rời Lý thuyết các bên có liên quan với Lý thuyết về tính hữu ích thông tin và ra quyết định. Lý do là chính lợi ích của thông tin kế toán là tác nhân, là động lực để những bên có liên quan có ảnh hưởng lớn, tác động đến các doanh nghiệp phải vận dụng chuẩn mực kế toán. Ở chiều ngược lại, việc vận dụng chuẩn mực kế toán là cơ sở để cung cấp thông tin có tính tin cậy, so sánh; qua đó giúp các bên có liên quan có thể ra quyết định và tìm kiếm cơ hội kinh doanh với doanh nghiệp.
1.2.3. Lý thuyết tín hiệu
Lý thuyết tín hiệu (Signal theory) có một vị trí nổi bật quan trọng trong các nghiên cứu về quản trị bao gồm cả quản trị chiến lược kinh doanh và quản trị nguồn nhân lực [59]. Lần đầu lý thuyết này được Spence giới thiệu vào năm 1973 nhằm giải thích sự bất đối xứng thông tin trong thị trường lao động, sau đó nó cũng được dùng để giải thích vấn đề tự nguyện công bố thông tin trong các báo cáo của các công ty [149]. Nội dung lý thuyết diễn tả hành vi hai bên: cung cấp và tiếp cận thông tin. Phía cung cấp thông tin phải lựa chọn cung cấp thông tin gì và bằng cách nào, phía nhận thông tin phải tìm cách để hiểu thông tin như thế nào. Thông tin kế toán chính là tín hiệu được lập trên cơ sở chuẩn mực kế toán.
Chuẩn mực kế toán là một hệ thống khái niệm, nguyên tắc chung được ban hành nhằm phục vụ công tác kế toán trong đơn vị. Người làm kế toán có vai trò cung cấp thông tin kế toán thông qua hệ thống báo cáo trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của chuẩn mực. Người sử dụng thông tin kế toán là nguời tiếp nhận những thông tin kế toán được cung cấp, xem xét đảm bảo thông tin kế toán là phù hợp với nhu cầu và lợi ích của người sử dụng thông tin hay không? Nếu vận dụng phù hợp các nguyên tắc trong CMKT thì thông tin công bố sẽ kỳ vọng có tính tin
cậy, hữu ích, dễ hiểu, so sánh cho người sử dụng. Khi đó, việc tiếp nhận thông tin của các bên liên quan cũng dễ dàng thuận lợi hơn. Do vậy, nội dung, mức độ và chất lượng thông tin được công bố trên cơ sở vận dụng CMKT ở một góc độ nào đó sẽ là tín hiệu phát ra cho các bên có liên quan.
Trong hoạt động kế toán, mức độ không hoàn hảo và bất cân xứng về thông tin kế toán thường rất cao. Người làm kế toán được coi như là đối tượng bên trong tiếp cận những thông tin nội bộ rò ràng hơn cũng như hiểu rò chất lượng của thông tin kế toán. Nguời tạo ra thông tin thường đặt trong mối quan hệ chi phí – lợi ích. Trình độ và kinh nghiệm của người làm kế toán sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận dụng CMKT vào thực tiễn để tạo và phát ra tín hiệu đến các đối tượng sử dụng. Các đối tượng sử dụng thông tin bao gồm cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đối tượng bên trong thường được nhắc tới đầu tiên là chủ doanh nghiệp, nhà quản lý.
…Lý thuyết tín hiệu có thể được dùng để giải thích cho tác động về sự am hiểu và quan tâm của nhà quản lý doanh nghiệp tới công tác kế toán và trình độ kế toán viên liên quan đến việc vận dụng CMKT trong doanh nghiệp.
Mặt khác, các công ty phải công bố thông tin và ra tín hiệu với các nhà đầu tư để cho rằng thông tin của họ đáng tin cậy, tăng khả năng thu hút vốn trên thị trường [175]. Tự nguyện công bố thông tin so với quy định bắt buộc theo yêu cầu của pháp luật là một trong những cách để khẳng định vị thế cũng như khả năng đáng tin cậy của doanh nghiệp trên thị trường. Khi doanh nghiệp có kết quả hoạt động tốt sẽ thể hiện rò những chính sách kế toán của doanh nghiệp mình sử dụng là phù hợp và ngược lại. Sử dụng lý thuyết tín hiệu có thể giải thích cho ảnh hưởng từ lợi ích của việc vận dụng CMKT liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4. Lý thuyết văn hóa của Hosftedd và Gray
Vai trò của văn hóa mỗi quốc gia đối với kế toán bắt đầu được quan tâm trong bối cảnh hội nhập quốc tế, và một trong những công trình về văn hóa có ảnh hưởng đến giải thích vận dụng kế toán (accounting practices) là của Hofstede [105].
Nghiên cứu của Hofstede [105] đã chỉ ra bốn yếu tố chủ yếu dẫn đến sự khác biệt về văn hoá giữa các quốc gia bao gồm: tính cá nhân (individualism), khoảng