loại suy cho cùng là lịch sử phát triển con người. Phát triển con người vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội, vừa là phương tiện tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển.
Phát triển con người hay phát triển NNL ở đây chính là sự gia tăng các giá trị về thể chất, trí tuệ, năng lực của từng cá nhân trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn nhằm nâng cao năng lực, trí tuệ và cuộc sống của con người, phù hợp với nhu cầu, lợi ích mà họ mong muốn.
Ngày nay, người ta nói nhiều đến sự phát triển con người bền vững và
có làm được như vậy thì con người mới trở thành động lực phát triển, mục tiêu của phát triển. Tuy nhiên, không dễ gì để thu hút sự chú ý của xã hội, của những nhà quản lý xã hội vào vấn đề phát triển con ngườ i bền vững, nhất là ở những quốc gia mà người dân đã phải sống trong giới hạn của mức tiêu dùng tối thiểu đã từ lâu, từ đó họ đang quan tâm nhiều đến quyền được nhận mức sống cao hơn trong tương lai. Nói cách khác, phát triển con người bền vững cần được hi ểu là sự tiến bộ, thông qua việc cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. Để có được chất lượng cuộc sống cao hơn, chúng ta cần c ó tri thức tốt hơn, có những thành tựu khoa học và công nghệ cao, khoa học xã hội và nhân văn phát triển, sự thoải mái và hạnh phúc.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO): Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi toàn bộ sự lành nghề của dân cư, trong mối quan hệ phát triển của đất nước. Quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực, bao hàm một phạm vi rộng lớn hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh ngành nghề, hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở nhận thức rằng, con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như những thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành
nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong quá trình sống, làm việc, nhằm đáp ứng kỳ vọng của con người.
Liên hợp quốc cho rằng, phát triển NNL bao gồm: giáo dục - đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan niệm này đã nhấn mạnh khía cạnh xã hội của vấn đề: NNL vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế và là mục tiêu của phát triển. Chú trọng đáp ứng nhu cầu của NNL về văn hóa và tinh thần, mở rộng tầm hiểu biết, cập nhật thông tin, mở rộng các mối liên hệ xã hội, tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của NNL. Chất lượng cuộc sống được cải thiện là khi con người cả m thấy thoải mái và hạnh phúc hơn, họ sẽ làm việc hăng say hơn và tạo ra năng suất lao động cao hơn, góp phần làm cho xã hội phát triển hiệu quả và bền vững. Có quan điểm cho rằng, phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vậ t chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển NNL được coi “là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL để ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế
Có thể bạn quan tâm!
- Các Công Trình Đề C Ập Đến Nguồn Nhân Lực Nữ, Nữ Trí Thức Và Phụ Nữ
- Những Giá Trị Của Các Công Trình Luận Án Cần Tham Khảo Và Vấn Đề Đặt Ra Cần Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Nguồn Nhân Lực Nữ Chất Lượng Cao
- Phát Triển Nguồn Nhân Lực Nữ Chất Lượng Cao Là Nội Dung Không Thể Thiếu Cho Việc Thực Hiện Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững, Đảm Bảo Tiến Bộ Công
- Phát Triển Nguồn Nhân Lực Nữ Chất Lượng Cao Góp Phần Trực Tiếp Nâng Cao Chất Lượng Nguồ N Nhân Lực Ở Việt Nam
- Những Nhân Tố Chủ Quan Cơ Bản Tác Động Đến Việc Phát Triển Nguồn Nhân Lực Nữ Chất Lượng Cao Ở Việt Nam Hiện Nay
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
- xã hội” [15, tr.20]. Quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực, khả
năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân tộc góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên bả n lĩnh, ý chí của mỗi người.
Như vậy, phát triển NNL là quá trình nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng từng con người lao động (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý - xã hội) đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Các phương diện thể hiện phát triển NNL bao gồm: phát triển về số lượng và chất lượng:
Về số lượng được thể hiện ở quy mô dân số, cơ cấu về giới và độ tuổi Về chất lượng là sự phát triển thể hiện ở cả ba phương diện: thể lực, trí
lực và nhân cách. Phát triển thể lực là sự gia tăng chiều cao, trọng lượ ng cơ thể, tuổi thọ, sức mạnh, sự dẻo dai cơ bắp và thần kinh. Phát triển trí lực là phát triển năng lực trí tuệ của con người để nhằm đáp ứng yêu cầu của của công việc đặt ra. Phát triển nhân cách là phát triển những phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, lối sống lành mạnh tính tích cực hoạt động, tinh thần trách nhiệm công dân. Ba phương diện trên có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời trong quá trình phát triển NNL.
2.1.3. Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Qúa trình phát triển NNL đòi hỏi tạo ra sự biến đổi về mặt số lượng và chất lượng, một cơ cấu đội ngũ nhân lực hợp lý cần thiết để tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình phát triển vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội. Khác với đầu tư cho các nguồn lực phi con người, đầu tư cho NNL là sự tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội nói chung. Phát triển NNLNCLC là quá trình tạo điều kiện khơi dậy và phát triển mọi tiềm năng của các cá nhân nữ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, vì sự tiến bộ, bình đẳng về kinh tế và xã hội. NNLNCLC muốn phát triển về số lượng và nâng cao về ch ất lượng , tạo sự bình đẳng giới thì cần phải gắn kết được điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Điều kiện khách quan là “những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tồn tại bên ngoài, độc lập với chủ thể đang hoạt động ở những thời điểm
cụ thể nhất định và có tham gia vào việc qui định kết quả hoạt độn g của chủ thể” [69, tr.16]. Từ đó có thể thấy điều kiện khách quan cho việc phát triển NNLNCLC ở Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều yếu tố cấu thành: CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; truyền thống văn hóa, tập quán, tâm lý dân tộc; gia đình; tiền đề sinh học về phụ nữ nói chung…. tác động đến sự phát triển NNLNCLC đều là những bộ phận cấu thành điều kiện khách quan.
Nhân tố chủ quan trong quá trình lịch sử là những khả năng khác nhau của con người mà bằng sự tác động củ a mình, đã đem lại sự biến đổi trong những mặt nhất định của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất cấu thành nhân tố chủ quan là ý thức và nói chung là đời sống tinh thần của con người, những kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của họ trong hoạt động sản xuất, ki nh nghiệm xã hội, trình độ văn hóa và đồng thời là những phẩm chất ý chí của họ: Tính tổ chức trong hoạt động của con người có một ý nghĩa to lớn [ 58, tr.20]. Nhân tố chủ quan trong việc phát triển NNLNCLC bao gồm: ý thức của NNLNCLC biến thành đặc điểm của hành vi; những phẩm chất, những trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể; và rộng hơn là những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra có tác động đến sự phát triển của NNLNCLC. Nhân tố chủ quan ở đây là bản thân NNLNCLC và tổ chức Đảng, Nhà nước.
Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, điều kiện khách quan đóng vai trò chủ đạo, quyết định nhân tố chủ quan.
Điều kiện khách quan quyết định mục đích và tạo ra những tiền đề, khả năng hiện thực cho hoạt động của nhân tố chủ quan. Lênin đã khẳng định: mục đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra, và lấy thế giới khách quan làm tiền đề. Con người trong hoạt động của mình phải lấy điều kiện khách quan làm căn cứ, tiền đề để đề ra những mục đích, dự định hành động của mình chứ không thể tuỳ tiện đề ra những mục đích theo cảm hứng
chủ quan, ảo tưởng. Khi đã đề ra mục đích, dự định rồi, con người phải sử dụng những lực lượng vật chất khách quan, những điều kiện hiện thực để giải quyết chúng. Bản thân nhân tố chủ quan không tác động trực tiếp vào hiện thực khách quan mà phải thông qua những lực lượng vật chất khách quan. Điều kiện khách quan cũng chi phối, quy định phương pháp, cách thức, phương tiện tác động , hoạt động của nhân tố chủ quan. Những biện pháp hành động phù hợp với hiện thực khách quan thì mới thành công, ngược lại nếu bất chấp, bỏ qua các điều kiện khách quan sẽ phải trả giá, thất bại, không đem lại kết quả trong cải tạo hiện thực như mong muốn. Điều kiện khách quan còn qui định sự hình thành và phát triển những mối liên hệ, những đặc điểm, những phẩm chất… của nhân tố chủ quan. Khi điều kiện khách quan thay đổi thì nhân tố chủ quan cũng phải thay đổi cho phù hợp với điều kiện khách quan mới.
Nhân tố chủ quan chịu sự qui định của điều kiện khách quan nhưng không hoàn toàn thụ động, lệ thuộc vào điều kiện khách quan. Trong quá trình tương tác giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan thì nhân tố chủ quan có tính độc lập tương đối, có vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo tác động trở lại điều kiện khách quan. Vai trò tích cực sáng tạo của nhân tố chủ quan thể hiện ở chỗ:
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể vận dụng sáng tạo cái chủ quan của
mình để tìm hiểu, nhận thức quy luật vận động của cái khách quan. Trong quá trình cải tạo thế giới, con người ngày càng gia tăng sức mạnh của mình để cải biến các lực lượng tự nhiên (thay đổi kết cấu vật thể, tạo ra những dạng vật chất mới…) phục vụ cho nhu cầu ngày càng gia tăng của mình. Không chỉ tác động vào giới tự nhiên, con người còn tác động lẫn nhau để cải biến các quan hệ xã hội; làm thay đổi, cải biến các chế độ xã hội theo hướng ngày càng tiến bộ, văn minh hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của con người.
Trên cơ sở những nhân tố khách quan đã có, con người chủ động tìm ra và tổ chức những nhân tố khách quan mới, đồng thời chuyển hoá bản thân những nhân tố chủ quan đáp ứng đòi hỏi của nhân tố khách quan mới.
Trong quá trình tác động trở lại quy luật khách quan , nhân tố chủ quan cũng đồng thời tự nâng cao khả năng nhận thức của mình trong quá trình biến đổi thế giới khách quan. Khi điều kiện khách quan chín muồi cho việc giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì nhân tố chủ quan, trước hết là ý thức, tư tưởng sẽ quyết định sự thành bại của con người trong hoạt động, giải quyết nhiệm vụ ấy. Tuy nhiên, nhân tố chủ quan có vai trò to lớn đến đâu, sức sáng tạo đến thế nào thì trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề vẫn phải xuất phát từ thực tế khách quan và phải tuân thủ các nguyên tắc khách quan. Hơn nữa, bản thân chủ thể hoạt động cũng là sản phẩm của thế giới khách quan, có nguồn gốc từ thế giới khách quan, toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt, lao động, và phát triển của chủ thể đều phản ánh những điều kiện, quy luật của thế giới khách quan. Mọi sự cố gắng của chủ thể trong quá trình phản ánh, nhận thức và cải tạo thế giới cũng là để đáp ứng một cách tốt nhất những mục đích và nhu cầu sống của chính mình.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan thì điều kiện khách quan là tính thứ nhất, quy định nhân tố chủ quan cả về nội dung, phương hướng và tổ chức hoạt động thực tiễn. Nhưng nhân tố chủ quan không bị động trước hoàn cảnh khách quan mà luôn lấy điều kiện khách quan là điểm xuất phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phát hiện, nắm bắt những khả năng khách quan, tạo ra nhữn g tiền đề biến khả năng khách quan thành hiện thực, làm chủ cái khách quan, biến tính tất yếu khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mình. Tính biện chứng trong mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ: đ ể đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn thì bắt buộc nhân tố chủ quan phải vận động, phát triển, tự hoàn
thiện những phẩm chất, nâng cao nhận thức, khả năng vận dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn của mình cho phù hợp với những quy luật vốn có của thế giới khách quan.
Trong quá trình phát triển NNLNCLC ở Việt Nam hiện nay, chúng ta phải tính đến việc tạo những điều kiện khách quan thuận lợi nhất cho phép NNLNCLC có thể tận dụng để phát triển. Đồng thời phải khai thác tính tích cực, sáng tạo vươn lên của NNLNCLC trong điều kiện khách quan hiện nay là vô cùng quan trọng. Qua đó, để thấy được sự phát triển của NNLNCLC trong xã hội là không thể thiếu, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới đất nước.
Việc phát triển NNLNCLC gắn liền với sự hoàn thiện, nâng cao chất lượng NNLN, thể hiện ở việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật, chuyên môn, sự sáng tạo, thể lực và tâm lực của người lao động. Muốn phát triển NNLNCLC phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan một cách hợp lý và có hiệu quả.
Trong xu thế phát triển của thời đại, phát triển NNLNCLC là yêu cầu cơ bản, lâu dài của tất cả các quốc gia. Có thể hiểu phát triển NNLNCLC là sự kết hợp giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan nhằm tạo ra sự gia tăng về số lượng, chất lượng và cơ cấu; đồng thời tạo sự bình đẳng về giới để đóng góp ngày càng tốt hơn cho sự phát triển bền vững của đất nước.
NNLNCLC là một bộ phận tinh túy nhất của NNLN, về mặt số lượng được thể hiện ở số lượng dân số nữ tốt nghiệp cao đẳng, đại học tr ở lên và đang ở độ tuổi có thể lao động, cống hiến.
Phát triển NNLNCLC về mặt chất lượng là sự phát triển cả ba phương diện: thể lực, trí lực và tâm lực. Phát triển thể lực là gia tăng chiều cao, trọng lượng cơ thể, tuổi thọ, sức mạnh và độ dẻo dai cơ bắp và thần kinh. Phát triển trí lực là phát triển năng lực trí tuệ; trong đó bao gồm việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sức sáng tạo, kinh nghiệm, kỹ năng...của NNLNCLC. Phát triển tâm lực là phát triển những phẩm chất
chính trị, đạo đức, tác phong nghề nghiệp chuyên nghiệp, tính kỷ luật cao, lối sống lành mạnh, tính chuyên cần chịu khó, nhân hậu, bao dung, tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, có ý chí tự lập, tự cường.
Phát triển NNLNCLC về mặt cơ cấu là tạo ra sự bình đẳng giữa hai giới và hiệu quả sử dụng trong quá trình phát triển. Như vậy, trong quá trình phát triển NNLNCLC chúng ta không chỉ tạo ra những điều kiện khách q uan thuận lợi mà còn phải khuyến khích sự năng động, sáng tạo của nhân tố chủ quan trong mỗi điều kiện hoàn cảnh cụ thể đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và xu hướng bình đẳng giới ngày càng tăng hiện nay.
2.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NỮ CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định phụ nữ được nhìn nhận như
một lực lượng cơ bản của cách mạng và nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được. Xuất phát từ vai trò to lớn của phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu của cách mạng Việt Nam Nói phụ nữ là nói nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" 65, tr.228
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
vấn đề phát triển NNLN đã được Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Có thể khẳng định rằng: xuất phát từ nhu cầu khách quan về các nguồn lực, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi NNLN là động lực không thể thiếu của mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển NNLNCLC, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải có một cách nhìn nhận toàn diện về vai trò mà họ đảm nhiệm, hoàn thành trong gia đình và ngoài xã hội. Nhờ kiên trì quan điểm giải phóng phụ nữ cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã động viên được rất nhiều