Vai Trò Của Chính Sách Phát Triển Nguồn Nhân Lực Nữ Trong Lực Lượng Công An Nhân Dân



riêng có của nguồn lực CAND (lực lượng vũ trang). Sự kết hợp giữa tiền lương với cấp bậc hàm phải đảm bảo hài hòa, không vì tiền lương mà làm phá vỡ hệ thống cấp bậc hàm, song cũng không để vì cấp bậc hàm mà làm ảnh hưởng (giảm) tiền lương dẫn đến mất động lực làm việc của cán bộ, chiến sỹ do trả công (tiền lương) không tương xứng với lao động.

Chính sách tiền lương cho NNLN trong lực lượng CAND đáp ứng các yêu cầu: Mức lương phải phù hợp với vị trí việc làm, đảm bảo tiền lương thực sự là nguồn thu nhập chủ yếu, đủ trang trải cuộc sống gia đình và đủ bù đắp vất vả, hao tổn tâm lực, thể lực, trí lực của cán bộ trong điều kiện, môi trường công tác đặc thù; đổi mới chính sách tiền lương của lực lượng CAND phải thống nhất, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nội dung và bước đi trong đổi mới chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm của Nhà nước và điều kiện nền kinh tế xã hội của đất nước; phải kế thừa những ưu điểm của chính sách tiền lương hiện hành. Đồng thời, có tác dụng thu hút NNLN chất lượng cao gia nhập lực lượng CAND, góp phần nâng cao chất lượng NNLN và xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Về chế độ phụ cấp, quy định chế độ phụ cấp là chế độ chỉ trả ngoài lương, áp dụng đối với một số nhóm đối tượng công tác ở các lĩnh vực đặc thù trong hệ thống tổ chức, bộ máy lực lượng CAND, chẳng hạn như các lĩnh vực: Điều tra, trinh sát, kỹ thuật hình sự, trại giam, khu vực miền núi, biên giới hay các nhóm đối tượng giữ chức vụ, chức danh chuyên môn, nghiệp vụ. Đây là khoản tiền trả cho cán bộ, chiến sỹ để bù đắp những hao phí về sức lao động nhưng chưa được tính trong tiền lương. Có một số loại phụ cấp chính gồm: Phụ cấp đặc thù, phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thu hút và chế độ ăn định lượng cao đối với một số đối tượng.

Chính sách phúc lợi là một trong những quyền lợi của người lao động được pháp luật bảo vệ, do tổ chức chăm lo, thực hiện. Chính sách phúc lợi là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về KT - XH và môi trường, đồng thời góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm an sinh xã



hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Theo đó, chính sách phúc lợi thực hiện đối với NNLN trong lực lượng CAND được hiểu là những quyền lợi về vật chất và tinh thần mà Nhà nước và Bộ Công an bảo đảm, nhằm thúc đẩy họ làm việc đạt hiệu quả cao hơn, gắn bó, tâm huyết với Ngành, với đơn vị công tác.

Chính sách phúc lợi đối với NNLN trong lực lượng CAND gồm các chính sách: Trợ cấp ốm đau, trợ cấp khó khăn, tai nạn lao động, thai sản, nghỉ dưỡng; chăm sóc y tế cho tứ thân phụ mẫu, con cán bộ, chiến sỹ CAND và chăm sóc sức khỏe người mẹ và trẻ em trong CAND. Các hoạt động này được thực hiện thông qua sự chăm lo của Bộ Công an, Công an đơn vị, địa phương, tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ và Ban Bình đẳng giới, gia đình và trẻ em trong CAND.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Để phát triển NNLN trong lực lượng CAND, chính sách phúc lợi cần đáp ứng được các yêu cầu: Bảo đảm tính toàn diện, kịp thời, thủ tục đơn giản, nhanh chóng; đảm bảo bình đẳng giới thực chất và áp dụng các chính sách ưu tiên đối với những cán bộ, chiến sỹ nữ trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn trong thời gian luân chuyển, cử đi đào tạo, công tác vùng biên giới, hải đảo và một số nhóm con việc ảnh hưởng sức khỏe sinh sản, giúp họ bù đắp, khắc phục hạn chế về giới, có điểm xuất phát ngang bằng với nam giới trong nền kinh tế thị trường.

Năm là, chính sách thi đua, khen thưởng đối với nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân

Chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân - 9

Thi đua, khen thưởng là một trong những biện pháp hữu hiệu để quản lý và sử dụng có hiệu quả NNL trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Thi đua là hoạt động của đội ngũ lãnh đạo, cán bộ tự nguyện cùng nhau đem hết tài năng, công sức nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Khen thưởng là việc dùng phần thưởng bằng vật chất hoặc tinh thần để động viên, khích lệ cán bộ ưu tú đạt thành tích xuất sắc, góp phần quan trọng trong sự thành công chung của tổ chức.

Chính sách thi đua, khen thưởng là tổng thể các quan điểm, mục tiêu và giải pháp nhằm động viên, khuyến khích NNLN trong CAND hăng say nỗ lực làm



việc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Mục tiêu của chính sách thi đua, khen thưởng nhằm khuyến khích, động viên, tạo động lực để NNLN hăng say, nỗ lực làm việc. Chính sách thi đua, khen thưởng đối với NNLN trong lực lượng CAND được thực hiện trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác và kết quả suy tôn NNLN trong thực hiện các phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” hay các đợt thi đua đặc biệt do Bộ Công an, Công an đơn vị, địa phương phát động.

Chính sách thi đua, khen thưởng phải gắn kết chặt chẽ với nhau và gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ. Khen thưởng là đánh giá kết quả của quá trình thi đua và là nhân tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển; thi đua là động lực thúc đẩy NNLN hoàn thành nhiệm vụ và là cơ sở cho việc khen thưởng, sử dụng NNLN; khen thưởng phải gắn với kết quả thực hiện phong trào thi đua, phong trào phải thiết thực, bám sát nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH trong từng thời kỳ và gắn với nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, địa phương; khen thưởng phải đảm bảo tính khách quan, công bằng và kịp thời. Hình thức khen thưởng phải tương xứng với thành tích, tạo động lực làm việc của cán bộ nữ CAND. Khen thưởng đúng, kịp thời sẽ thúc đẩy, mở đường cho phong trào thi đua phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác chuyên môn của mỗi đơn vị, địa phương.

2.2.3. Vai trò của chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân

Chính sách có vai trò hết sức quan trọng trong công tác cán bộ. Sinh thời, Hồ Chủ tịch đã từng căn dặn “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm” [31]. Trong tình hình mới hiện nay, việc xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, hậu phương vững chắc, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội phải dựa vào hệ thống các chính sách. Chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND là một bộ phận trong hệ thống chính sách đối với lực lượng CAND, vai trò của chính sách thể hiện như sau:

Một là, thực hiện chức năng của nhà nước về phát triển nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân.



Nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước nói chung và phát triển KT - XH nói riêng. Để phát triển NNL, nhà nước đã sử dụng hệ thống các công cụ chính sách nhằm định hướng, khuyến khích, hỗ trợ, tạo lập và điều tiết, tác động nâng cao chất lượng NNL và sử dụng hiệu quả NNL trong mỗi lĩnh vực, bộ ngành, địa phương.

Chính sách phát triển NNLN có vai trò hết sức quan trọng, là bộ phận không thể tách rời trong công tác quản lý NNL của lực lượng CAND. Nhà nước, Bộ Công an chăm lo, thực hiện tốt chính sách phát triển NNLN chính là nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng NNLN và điều tiết sử dụng hiệu quả NNLN, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ ANTT mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Cụ thể:

Nhà nước thực hiện các chính sách đối với NNLN là đảm đảm đãi ngộ xứng đáng với lao động đặc thù của NNLN trong CAND. Chính sách trong CAND tác động đến hành vi của từng cán bộ, chiến sĩ nữ. Một mặt NNLN sẽ ý thức được trách nhiệm, vai trò của mình đối với công việc đảm nhiệm; mặt khác, có tạo ý thức vươn lên, hoạt động tích cực và tạo năng xuất làm việc. Chính sách được quy định càng cụ thể thì NNLN càng dễ tiếp thu, hiểu được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi mà mình được hưởng. Do vậy, chính sách tương xứng với vị trí công việc, hoạt động của lực lượng CAND sẽ đảm bảo sự vững mạnh của lực lượng, sự cống hiến, hi sinh của NNLN để góp phần đảm bảo ANQG và bảo đảm TTATXH của đất nước.

Chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện định hướng phát triển NNLN theo chủ trương của Đảng, Nhà nước và Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã đề ra; đồng thời đảm bảo động viên, khích lệ NNLN tích cực, chủ động hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chính sách tốt, hợp lý tạo nên sự khích lệ tính năng động, sáng tạo trong công việc và có tác động rất lớn đến việc hình thành, phát huy năng lực của cán bộ; ở tầm vĩ mô, chế độ, chính sách tốt sẽ tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển lớn mạnh và bền vững của lực lượng CAND, nhằm thực hiện mục tiêu xây



dựng CAND trở thành lực lượng tinh nhuệ, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Mặt khác, chính sách đối với NNLN trong lực lượng CAND còn có vai trò tăng cường sức phòng ngừa cho cán bộ trước những hiện tượng tiêu cực, trước những cám dỗ vật chất tầm thường trong khi thi hành công vụ, để cán bộ, chiến sỹ nữ thực sự trong sạch. Trên góc độ vĩ mô, chính sách nói chung và chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND luôn là một bộ phận quan trọng và yếu tố quyết định sự thành công của chiến lược phát triển NNL của lực lượng CAND.

Bảo đảm vai trò, trách nhiệm của toàn xã hội trong xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, hiện đại, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sự trưởng thành, vững mạnh của lực lượng CAND ngày hôm nay là nhờ vào sự quan tâm đặc biệt và toàn diện Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó chính sách phát triển NNLN là tiền đề vật chất và tinh thần hết sức quan trọng để xây dựng, củng cố cả về tổ chức và chất lượng, tạo tâm lý phấn khởi, yên tâm công tác, học tập và cống hiến của từng cán bộ. Đảng, Nhà nước đã và đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để lực lượng CAND có điều kiện phát huy khả năng, trách nhiệm của mình, trong đó chính sách đối với cán bộ nữ CAND luôn được quan tâm. Đó là nguồn động viên về vật chất và tinh thần vô cùng to lớn, thiết thực để mỗi cán bộ, chiến sỹ nữ CAND yên tâm công tác, cống hiến sức lực, trí tuệ; đồng thời, là cơ sở để lực lượng CAND phát triển ngày càng chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hai là, góp phần phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân

Sử dụng hiệu quả NNLN sẽ mang lại hiệu quả toàn diện cho phát triển NNLN. Hiệu quả sử dụng NNLN được đánh giá bằng mức độ sử dụng cả về số lượng, chất lượng và thời gian sử dụng. Do vậy, chính sách phát triển NNLN có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hệ số sử dụng số lượng NNLN, nâng cao hệ số thời gian sử dụng NNLN. Chính sách phát triển NLNN có vai trò to lớn trong việc nâng cao hiệu suất sử dụng nhân lực bằng việc tăng thêm giá trị được tạo ra từ việc sử dụng NNLN ở mỗi quốc gia, mỗi ngành và mỗi lĩnh vực, địa phương. Chính sách có vai trò quyết định trong thực hiện việc hỗ trợ và tạo điều



kiện phát triển NNLN trong lực lượng CAND, đảm bảo về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNLN trong lực lượng CAND, đảm bảo đủ năng lực và trình độ phục vụ sự nghiệp bảo vệ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH. Chính sách có vai trò nâng cao chất lượng và phát huy tiềm năng của NNLN trong lực lượng CAND, nhất là đối với NNLN là lãnh đạo, chỉ huy hoặc có nhiệm vụ chủ trì, phụ trách các lĩnh vực công tác quan trọng trong CAND. Cũng chính từ đội ngũ này để đào tạo bồi dưỡng, thu hút NNLN chất lượng cao, tạo nên một thế hệ đội ngũ NNLN giỏi, tinh thông nghiệp vụ trong lực lượng CAND. Chính sách đối với NNLN khi được thực hiện tốt sẽ góp phần tích cực trong việc sử dụng hiệu quả NNLN trong lực lượng CAND, đáp ứng tốt yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ ANTT.

Thứ ba, góp phần thực hiện bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong lực lượng Công an nhân dân

Bình đẳng giới luôn là mục tiêu quan trọng và nhất quán được Đảng, Nhà nước quan tâm thực hiện trong những năm qua. Đặc biệt, việc quan tâm tới công tác cán bộ nữ, tạo điều kiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, thể hiện qua nhiều nghị quyết, chỉ thị, qua đó cho thấy sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong việc thúc đẩy thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND là nội dung có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thành công mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới đã đặt ra.

Bốn là, góp phần xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Quá trình xây dựng và phát triển của lực lượng CAND luôn có sự quan tâm đặc biệt và lãnh đạo toàn diện của Đảng, Nhà nước và sự ủng hộ của bộ, ngành, địa phương và nhân dân, nhất là trong công tác xây dựng lực lượng CAND, đảm bảo đủ sức mạnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ ANTT. Khi chính sách phát triển NNL trong lực lượng CAND nói chung và NNLN trong CAND nói riêng được thực hiện tốt sẽ là tiền đề vật chất và tinh thần hết sức quan trọng để xây dựng, phát triển tổ chức, bộ máy và nâng cao chất lượng NNL CAND, đảm bảo vững mạnh toàn diện về mọi mặt, từ số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý,



bền vững và chiến lược, xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, bảo vệ Đảng, Nhà nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, giữ gìn cuộc sống bình yên và hành phúc của nhân dân.

2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển nguồn nhân lực nữ trong lực lượng Công an nhân dân

2.3.1. Chất lượng chính sách

Chất lượng chính sách ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực thi chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND. Sự ảnh hưởng của chất lượng chính sách đối với hiệu quả thực thi chính sách thể hiện ở hai điểm chủ yếu:

- Tính đúng đắn của chính sách, là tiền đề cơ bản cho việc thực thi có hiệu quả chính sách. Chính sách đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và sự phát triển của lực lượng CAND, thúc đẩy hiệu quả bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, thể hiện lợi ích công, thúc đẩy sự phát triển xã hội, phát triển NNLN trong lực lượng CAND thì sẽ được thực hiện hiệu quả và ngược lại. Chính sách đúng đắn thể hiện ở sự đúng đắn về nội dung, phương hướng cũng như việc hoạch định chính sách dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ.

- Tính rõ ràng, cụ thể của chính sách, là yếu tố then chốt để thực thi chính sách có hiệu quả, cũng là cơ sở để tiến hành đánh giá và giám sát quá trình thực thi chính sách. Để thực thi thuận lợi một chính sách nào đó, về mặt kỹ thuật, chính sách đó cần phải rõ ràng, cụ thể, tức sự rõ ràng về phương án chính sách, mục tiêu chính sách, biện pháp chính sách và các bước triển khai. Đồng thời, tính rõ ràng, cụ thể của chính sách và yêu cầu, mục tiêu chính sách cần phù hợp với thực tế và có thể thực hiện được, có thể tiến hành so sánh và đo lường được. Vậy nên các chính sách nếu phản ánh đúng các quy luật của đời sống, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với thực tiễn và cuộc sống của người lao động, đem lại lợi ích cho người lao động.

Cũng như vậy, các chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND nếu phản ánh được những quyền lợi của NNLN; đảm bảo khoa học, toàn diện, phù hợp, gắn với kế hoạch hóa NNL Công an; rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện thì thuận



lợi cho các đối tượng trong quá trình thực thi chính sách; đồng thời, sẽ đem lại hiệu quả thiết thực, tạo động lực phát triển đối với NNLN, giúp NNLN nỗ lực học tập, rèn luyện, tâm huyết, yêu nghề, khắc phục khó khăn về giới để hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác, chiến đấu, góp phần tích cực trong sự nghiệp bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH.

2.3.2. Năng lực chủ thể hoạch định, thực thi chính sách

Chủ thể hoạch định, thực thi chính sách có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách. Năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách sẽ quyết định và tạo nên chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của chính sách, quyết định sự thành công hay thất bại của các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong phát triển NNLN nói chung và NNLN trong lực lượng CAND nói riêng.

Đối với việc hoạch định, thực thi chính sách phát triển NNLN trong lực lượng CAND, để chính sách chất lượng, phù hợp và đi vào thực tiễn một cách hiệu lực, hiệu quả, đòi hỏi các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định, thực thi chính sách, ở mỗi cấp độ khác nhau phải nhận thức đầy đủ, toàn diện sâu sắc về các chủ trương, lãnh đạo của Đảng, pháp luật Nhà nước về phát triển NNLN và xây dựng lực lượng CAND trong mỗi giai đoạn; hiểu rõ đặc điểm, tích chất lao động lực lượng CAND và NNLN; quan trọng nhất phải có kiến thức, trình độ về quản lý công và hoạch định, thực thi chính sách công; cuối cùng là có hiểu biết, nhận thức đúng đắn về giới, bình đẳng giới. Nếu cán bộ tham mưu hoạch định, thực thi chính sách hạn chế về trình độ, năng lực, thiếu hiểu biết về giới, thậm chí còn tư tưởng định kiến giới sẽ dẫn đến ban hành chính sách không khả thi, thiếu bao quát, thiếu khoa học, không đáp ứng yêu cầu thực tiễn; nếu cán bộ tham mưu thực thi chính sách hạn chế về năng lực trình độ hay nhận thức sai lệch, thiếu ý thức trách nhiệm với công việc sẽ triển khai chính sách không đầy đủ, không hiệu quả trong thực, thậm chí “trên nóng dưới lạnh” không triển khai chính sách, hoặc triển khai nhưng vì một lý do nào đó mà gây khó khăn, triển khai cứng nhắc, không linh hoạt, làm cho chính sách bị ảnh hưởng và không mang lại hiệu quả.

2.3.3. Nguồn lực tài chính và vật chất

Ngày đăng: 19/05/2022