Bảo Hộ Nhãn Hiệu Nổi Tiếng Theo Pháp Luật Hoa Kỳ

lợi cho tính phân biệt hoặc danh tiếng của nhãn hiệu có trước; (4) người nộp đơn CTM không có lý do hợp lý.

Danh tiếng không được định nghĩa trong CTMR, tuy nhiên bản chất của nó được hiểu là yêu cầu về ngưỡng của sự hiểu biết, có đặc tính định lượng, giống như "nổi tiếng". Một nhãn hiệu đạt được mức độ có danh tiếng khi được phần lớn công chúng có liên quan biết đến. Điều quan trọng là việc kiểm tra danh tiếng được đơn giản hóa. Về nguyên tắc, không có nhu cầu phải chứng minh các khía cạnh khác như hình ảnh chất lượng, tính độc đáo, tính phân biệt cố hữu…mà chỉ cần chứng minh mức độ nhận biết phù hợp. Tuy nhiên, các khía cạnh bổ sung như vậy của danh tiếng về sau có thể có ý nghĩa quan trọng để chứng minh rằng yếu tố đó bị tổn hại.

Việc đánh giá danh tiếng được thực hiện trên cơ sở đánh giá tổng thể tất cả các yếu tố liên quan đến vụ việc. Nhãn hiệu có trước không cần được biết đến theo tỉ lệ phần trăm công chúng nhất định. Cũng không thể thiết lập một tiêu chí nhất định cho nhãn hiệu có danh tiếng mà thường đánh giá trên cơ sở từng vụ việc. Chẳng hạn đối với vụ General Motors, các yếu tố được đánh giá là: mức độ biết đến, tần suất sử dụng, thời gian sử dụng, phạm vi địa lý của việc sử dụng, mức độ đầu tư trong tiếp thị….

Các phương tiện để chứng minh danh tiếng của nhãn hiệu được quy định tại Điều 76 CTMR bao gồm:

- Tuyên thệ hoặc tuyên bố có xác nhận

- Các quyết định của Tòa Án/ Cơ quan quốc gia

- Các quyết định của Cơ quan (OHIM)

- Các phiếu thăm dò ý kiến và các cuộc khảo sát thị trường

- Các kết quả kiểm toán và thanh tra

- Các chứng nhận và giải thưởng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

- Các bài báo trên báo chí, ấn phẩm chuyên ngành

- Các báo cáo hàng năm- các hồ sơ của Công ty

Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam - 7

- Các hóa đơn và các chứng từ thương mại khác

- Tài liệu quảng cáo và tiếp thị

Một số ví dụ sau có thể chứng minh cho việc cung cấp các chứng cứ.

► Vụ OD 3188/2002 NEW MAN

Việc cung cấp đơn thuần bản tuyên thệ của người phản đối nói chung là không đủ.

Trên thực tế tài liệu này chỉ giới hạn ở tuyên bố của Stepherson. Stepherson là thư ký của công ty người phản đối và thay mặt người phản đối. Để các tuyên bố của các bên có giá trị tuyệt đối, trong các trường hợp như trường hợp hiện tại, phải yêu cầu người nộp đơn chứng minh sự giả dối trong các tuyên bố đó. Trong hầu hết các trường hợp, người nộp đơn không thể làm như vậy kể cả trong trường hợp các sự kiện rõ ràng là giả mạo. Hơn nữa phát hiện như vậy có thể làm nguy hại đến nguyên tắc theo đó người phản đối phải chứng minh các sự kiện mà người đó muốn dựa vào.

► Vụ OD 733/2004 Isla Princesa

Việc đưa ra các số liệu về doanh thu và lượng hàng hóa bán ra phải được đánh giá cả về vấn đề lãnh thổ cũng như hàng hóa dịch vụ liên quan, các chứng cứ này phải được hỗ trợ bởi chứng cứ khác. Người phản đối đưa ra một biểu đồ với các số liệu hàng hóa bán ra. Không có chỉ dẫn về tác giả của biểu đồ này. Người phản đối không nộp bất kỳ bản tuyên thệ hoặc tuyên bố tương tự nào để giải thích các dữ liệu trong đó và xác nhận tính chân thực của nó. Người phản đối cũng không nộp bất kỳ chứng cứ nào khác có thể khẳng định, chứng minh hoặc bổ sung cho các số liệu về hàng hóa bán ra và chỉ ra rằng các nhãn hiệu có trước có uy tín trong các vùng lãnh thổ tương ứng.

Việc đơn thuần đệ trình tư liệu quảng cáo và xúc tiến thường không chỉ rõ thời gian, khu vực và phạm vi phân phối tư liệu đó, cần đưa ra các chỉ dẫn về việc này. Người phản đối đệ trình một số bản sao các quảng cáo mà không có chỉ dẫn về việc chúng đã được công bố hay phân phối hay không. Trong trường hợp không có các chỉ dẫn về địa điểm, thời gian, phương tiện và phạm vi mà công chúng biết đến hàng hóa do việc trưng bày hoặc quảng cáo hàng hóa này, các bản sao được nộp sẽ không cung cấp bất kỳ thông tin hữu ích nào liên quan tới uy tín được dẫn chứng của các nhãn hiệu bị phản đối.

Một vấn đề nữa cần được bàn đến ở Điều 8(5) là tính tương tự của các dấu hiệu được hiểu như thế nào? Có thể kiểm tra tính tương tự bằng cách so sánh về thị giác, ngữ âm và ngữ nghĩa của các dấu hiệu để xác định mức độ tương tự của chúng.

Thiệt hại- "lợi thế không lành mạnh" theo Điều 8(5) có các dạng sau:

● Tổn hại về tính phân biệt (bị làm loãng)

● Thiệt hại về uy tín (bị lu mờ)

● Lợi thế về tính phân biệt (Giá trị hấp dẫn)


"Nhãn hiệu nổi tiếng"


Nổi tiếng Không đăng ký 8(2)(c) CTMR

Bảo hộ tăng cường chống lại các hàng hóa tương tự trong trường hợp có khả năng gây nhầm lẫn

(Thông qua Điều 8(1)(b) CTMR)

Danh tiếng Đăng ký 8(1)(b) CTMR

Bảo hộ tăng cường chống lại các hàng hóa tương tự trong trường hợp có khả năng gây nhầm lẫn

8(5) CTMR

Bảo vệ đối với thiệt hại hoặc lợi thế không lành mạnh, đồng thời chống lại các hàng hóa không tương tự

2.2.2.2. Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC

Được ban hành không phải nhằm mục đích thống nhất tất cả các hệ thống pháp luật về NHHH của các quốc gia, mục đích của nó chỉ là hướng đến cố gắng làm giảm đi sự khác biệt giữa các hệ thống NHHH quốc gia là nguyên nhân gây ra những rào cản cho thương mại và ảnh hưởng đến sự lưu thông tự do hàng hóa, dịch vụ cũng như hạn chế sự phát triển của các thị trường đơn lẻ. Văn bản hướng dẫn nhấn mạnh những nội dung mấu chốt của luật thực định hơn là những vấn đề của luật hình thức. Có ba điều khoản quan trọng của văn bản liên quan đến cơ chế đăng ký NHHH cũng như việc xác lập quyền thông qua đăng ký, đó là:

- Điều 3: Chỉ ra những căn cứ cho việc từ chối hay vô hiệu hóa sự đăng ký của các NHHH;

- Điều 4: Đề cập đến những trường hợp được coi là gây ra sự xung đột với những NHHH trước đó;

- Điều 5: Xác lập quyền thông qua thủ tục đăng ký NHHH.

Trong đó, NHHH nổi tiếng là một trong những căn cứ quan trọng mà các cơ quan có thẩm quyền phải cân nhắc, xem xét khi tiếp nhận và đánh giá đơn đăng ký bảo hộ đối với NHHH ở Châu Âu.

NHHH nổi tiếng có thể được bảo hộ ngay cả khi chúng chưa được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền. Điều này có nghĩa rằng, đối với NHHH nổi tiếng, việc bảo hộ không chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc "quyền ưu tiên đăng ký" (first - to - file) mà còn dựa trên nguyên tắc "quyền ưu tiên sử dụng" (first - to - use). Như vậy, điều này hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế và cũng tương tự với pháp luật Nhật Bản mà chúng ta đã phân tích ở trên.

Theo những quy định tại Điều 4 của Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC, một NHHH sẽ không thể được đăng ký, hoặc nếu đã được đăng ký sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu ở các quốc gia Châu Âu nếu nó bị coi là giống hoặc tương

tự với những nhãn hiệu đã được đăng ký được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ tương tự, hoặc nó có thể gây ra sự nhầm lẫn với những nhãn hiệu Cộng đồng trước đó. Khái niệm "nhãn hiệu hàng hóa trước đó" (earlier trademark) được hiểu bao gồm cả những nhãn hiệu được thừa nhận là nổi tiếng phù hợp với quy định tại Điều 6bis của Công ước Paris 1883. Điều này cũng tiếp tục được khẳng định một lần nữa tại Quy định về NHHH cộng đồng năm 1993.

Căn cứ về nguy cơ gây nhầm lẫn với một NHHH trước đó là một căn cứ quan trọng cho việc từ chối yêu cầu đăng ký đối với một NHHH. Tuy nhiên, việc xác định thuật ngữ "nguy cơ gây nhầm lẫn" (likelihood of confusion) là rất khó khăn trên thực tế, nhất là trong việc phân biệt nó với những thuật ngữ tương tự khác. Chẳng hạn, trong phán quyết của Tòa án về vụ kiện "Sabel v. Puma AG", thuật ngữ "nguy cơ gây nhầm lẫn" mà nó bao gồm cả "nguy cơ liên tưởng" (likelihood of association) với những NHHH trước đó được giải thích theo nghĩa rằng sự nhầm lẫn liên tưởng mà công chúng có được giữa hai NHHH như là kết quả của sự giống hay tương tự về mặt ngữ nghĩa học sẽ không trở thành một căn cứ có ý nghĩa cho việc quyết định rằng có một "nguy cơ gây nhầm lẫn" theo quy định tại Điều 4 (1) (b) của Văn bản hướng dẫn. Sự tồn tại của một "nguy cơ liên tưởng" sẽ không đồng nghĩa với sự tồn tại một "nguy cơ gây nhầm lẫn" trên thực tế. Hay nói cách khác, "nguy cơ liên tưởng" ở đây không có giá trị thay thế cho một "nguy cơ gây nhầm lẫn". Bởi vì điều này và cũng dựa trên kết quả nghiên cứu mà nó đã chỉ ra rằng PUMA không phải là một NHNT đặc biệt ở Châu Âu, Tòa án đã tuyên rằng cơ quan có thẩm quyền không thể từ chối đăng ký cho nhãn hiệu SABEL.

Ngoài ra, còn có một nguyên tắc quan trọng khác liên quan đến việc bảo hộ NHHH ở Châu Âu quy định rằng việc bảo hộ đối với NHHH nổi tiếng sẽ không chỉ bị giới hạn trong phạm vi những hàng hóa và dịch vụ tương tự. Theo đó, phạm vi bảo hộ sẽ được mở rộng cho cả những trường hợp NHHH được sử dụng cho những loại hàng hóa hay dịch vụ không tương tự khi những

sự sử dụng như thế có thể gây thiệt hại hoặc tạo ra những điều kiện bất lợi cho danh tiếng của nhãn hiệu trước đó. Và khi một nhãn hiệu đã được công nhận là nổi tiếng tại một trong những nước thành viên của Liên minh, nó sẽ đương nhiên trở thành NHNT trong toàn Liên minh. Chúng ta sẽ đến với vụ kiện đối với nhãn hiệu CANON để thấy rõ hơn điều này:

Bên phản đối là công ty Canon K.K (Nhật Bản) và bên bị phản đối là công ty Pathe Communication (US). Bên phản đối cho rằng nhãn hiệu "CANON" là nhãn hiệu và là tên công ty của họ đã nổi tiếng đối với các sản phẩm "tivi, phim ảnh, các thiết bị ghi âm, các thiết bị truyền phát tín hiệu và các sản phẩm khác thuộc nhóm 09", cho nên nhãn hiệu "CANON" của Pathe bao gồm các sản phẩm video, phim, băng cát xét sẽ không được đăng ký cũng như không được sử dụng. Cơ quan sang chế Đức không chấp nhận phản đối trên của Công ty Canon vì cho rằng các sản phẩm của hai nhãn hiệu là không tương tự nhau. Cuối cùng, Tòa Án tối cao Đức đã quyết định rằng nhãn hiệu CANON của Công ty Canon (Nhật Bản) là NHNT trên toàn thế giới, vì thế mà nhãn hiệu CANON của Công ty Pathe sẽ không cùng tồn tại mặc dù các sản phẩm cụ thể không trùng hay tương tự nhau.

Như vậy, NHNT ở Châu Âu sẽ được bảo hộ chủ yếu thông qua các Điều ước quốc tế và các Văn bản pháp luật thống nhất của Liên minh. Bên cạnh đó, các hệ thống pháp luật độc lập của các quốc gia thành viên cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các tiêu chí và quy định cụ thể về bảo hộ NHNT trên lãnh thổ quốc gia mình.

2.2.3. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Hoa Kỳ

Một trong các yếu tố được xem xét để quyết định liệu hai nhãn hiệu có tương tự gây nhầm lẫn hay không là mức độ được người tiêu dùng biết đến của nhãn hiệu có trước: nhãn hiệu có trước càng nổi tiếng thì càng có khả năng gây nhầm lẫn. Các yếu tố khác được xem xét để quyết định xem liệu hai nhãn hiệu có tương tự gây nhầm lẫn hay không về cơ bản là: mức độ tương tự

về cách trình bày, cách phát âm, ý nghĩa hoặc ấn tượng về mặt thương mại của các nhãn hiệu; sự tương tự giữa các hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu; hàng hóa mang nhãn hiệu có liên quan có được bán trong cùng các kênh thương mại hay không; người mua quyết định việc mua hàng dựa trên sự bốc đồng hay có sự suy xét cẩn thận; có nhiều người sử dụng nhãn hiệu tương tự liên quan đến hàng hóa đang được xem xét hay không. Và yếu tố cuối cùng là đã có trường hợp nhần lẫn thực tế giữa hai nhãn hiệu hay chưa.

2.2.3.1. Văn bản pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Hoa Kỳ

Khác với các quốc gia Châu Âu và nhiều nước trên thế giới, Hoa Kỳ chưa phải là thành viên của Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như một số các cam kết quốc tế khác về lĩnh vực này. Do vậy, về nguyên tắc Hoa Kỳ sẽ không chịu sự ràng buộc bởi các quy định của các điều ước quốc tế này. Điều này cũng có nghĩa rằng Hoa Kỳ sẽ không thể kế thừa và tận dụng được những thành tựu pháp lý quốc tế liên quan đến lĩnh vực này một cách chính thức như nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bảo hộ NHHH nói chung và NHNT nói riêng ở Hoa Kỳ hiện nay lại thật sự tỏ ra khá hoàn chỉnh và hiệu quả ở cả cấp độ liên bang lẫn tiểu bang.

Việc thực thi pháp luật về bảo hộ NHHH ở Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu dựa trên những quy định của Đạo luật NHHH năm 1946 mà nó còn được biết đến với tên gọi Đạo luật Lanham. Thế nhưng Đạo luật này lại không đề cập một cách cụ thể đến NHHH nổi tiếng. Đến năm 1995, Nghị viện Hoa Kỳ mới thông qua một Đạo luật mới, Đạo luật Liên bang về sự lu mờ NHHH (FTDA). Đạo luật này được ban hành nhằm bổ sung, sửa đổi Đạo luật về NHHH năm 1946, cụ thể là sửa đổi nội dung của Điều 43, quy định về sự đền bù hay bồi thường cho việc làm lu mờ đối với NHHH nổi tiếng. Đạo luật sửa đổi này đã mô tả các yếu tố để xác định một NHHH là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ "sự lu mờ" (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của NHHH nổi tiếng trong

việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn. Bằng việc đưa ra những quy định mới này, lần đầu tiên NHHH nổi tiếng được pháp điển hóa trong hệ thống lập pháp Hoa Kỳ.

Mặc dù có những sự khác biệt cơ bản so với hệ thống pháp luật Châu Âu về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhưng đối với việc quy định nguyên tắc cơ bản điều chỉnh lĩnh vực này, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và Châu Âu lại có một điểm tương đồng, đó là sự ghi nhận nguyên tắc "quyền ưu tiên sử dụng" (first to use) một cách chính thức trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế lại không giống nhau. Nếu như trong hệ thống pháp luật Châu Âu, nguyên tắc "quyền ưu tiên sử dụng" được áp dụng trong sự kết hợp với nguyên tắc "quyền ưu tiên nộp đơn" (first to file) cùng với sự cân nhắc của Tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác thì trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, nguyên tắc này lại phải được áp dụng trong sự xem xét, cân nhắc của Tòa án trên cơ sở các nguyên tắc chung của Luật công bằng (Equity). Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì Hoa Kỳ là một quốc gia theo hệ thống Luật Chung (Commmon Law), và trong hệ thống này thì các nguyên tắc của Luật công bằng là một trong những nguyên tắc chủ đạo chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống pháp lý.

2.2.3.2. Khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng

Cho đến nay, không có một định nghĩa chính xác về khái niệm "nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng" ở Hoa Kỳ. Điều này cũng tương tự như tình trạng thực tế hiện nay ở Châu Âu cũng như ở rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy, việc xác định một NHHH có phải là NHNT hay không là rất phức tạp. Hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Hoa Kỳ, đều trao thẩm quyền cho các cơ quan chức năng (thông thường là Tòa án hoặc các Văn phòng quốc gia về Sở hữu công nghiệp) trong việc xác định sự nổi tiếng của các NHHH trong những trường hợp cụ thể. Và lẽ dĩ nhiên những quyết định hay sự xem

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/11/2023