hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại” [29] (Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta).
Như vậy các ý kiến trên đã phần nào làm sáng rò hơn về định nghĩa trường ca nói chung và trường ca hiện đại nói riêng. Trong các ý kiến về định nghĩa trường ca, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi ông cho rằng “trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại” [29]. Đây là ý kiến xác đáng về trường ca hiện đại. Bởi trường ca hiện đại ra đời trong hoàn cảnh đất nước có những biến cố dữ dội. Dân tộc ta đã có những trang sử đau thương mà vô cùng anh dũng, không thể coi là nhỏ bé, vụn vặt bởi lẽ nó đã vượt ra khỏi phạm vi một dân tộc, nó là những chiến công mà cha ông ta và nhân dân ta đã gây dựng.
Về đặc trưng thể loại, có nhiều bài viết đã nghiên cứu một cách khá công phu. Các tác giả thường dựa vào sự so sánh giữa trường ca với thơ dài, trường ca với truyện thơ...để nói lên đặc trưng của thể loại như: Trần Ngọc Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Mai Bá Ấn... Trong các bài viết này đáng chú ý nhất là ý kiến của tác giả Mai Bá Ấn. Theo tác giả giữa trường ca và thơ dài cũng cần có sự khu biệt để nhận thức đầy đủ đặc trưng của từng thể loại. Xu hướng “trường ca hóa” các tác phẩm thơ dài sẽ hạ thấp vai trò của trường ca, xóa nhòa những yếu tố đặc trưng phân biệt nó với các thể loại khác. Bởi thơ dài thực chất là thơ trữ tình mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực bằng cách tăng cường yếu tố tự sự - “Thơ dài là thơ trữ tình nới rộng trường độ mà thôi” [5]. Vì thế dù có cố gắng thế nào thì “độ dướn” của một bài thơ, dù là thơ dài cũng chỉ là sự phát triển của những mạch lẻ cảm xúc. Còn trường ca không phải là thơ trữ tình mà coi thơ trữ tình là “một bộ phận con” trong chỉnh thể tác phẩm trường ca. Cảm xúc trong trường ca phải được ủ men và bốc lửa qua từng đoạn, từng chương nối tiếp nhau trong một thời
gian dài với nội dung phản ánh đa diện, với một trí tưởng tượng đa chiều và một trí tuệ đủ tầm văn hóa, lịch sử xuyên suốt trong quá trình sáng tạo. Bên cạnh đó một số tác giả đi từ sự vận động của các thể loại được gọi là trường ca hoặc từ những lí thuyết về thể loại của nước ngoài để xem xét trường ca hiện đại như các tác giả : Phạm Huy Thông, Đỗ Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến...
Ngoài các bài viết được đăng tải trên báo chí, trong một số công trình nghiên cứu cũng xuất hiện một số bài viết về trường ca. Sớm nhất, có lẽ là bài viết của Lại Nguyên Ân, đầu tiên được đăng trên báo, sau được tập hợp trong cuốn Văn học và phê bình. Trong đó, bài viết “Mấy suy nghĩ về trường ca” được viết trước 30 tháng 4 năm 1975 là bài viết công phu; ngoài việc ghi nhận những thử nghiệm về trường ca, tác giả đã phân biệt rò trường ca với các thể tài khác, nêu lên những đặc trưng cốt yếu của trường ca, các hình thức trường ca được viết trong thời gian đó. Bài viết “Thể trường ca trong thơ gần đây” được Lại Nguyên Ân viết năm 1982. Trong đó, ông xem trường ca như một thể tài và cẩn trọng cho rằng “trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, có lẽ vẫn còn đủ thận trọng để coi trường ca như là một thể tài đang hình thành và phát triển, với xu hướng chung là đưa yếu tố suy nghĩ trữ tình thành yếu tố chủ đạo của tác phẩm trường ca”. Có thể nói rằng, với cuốn “Văn học và phê bình”, Lại Nguyên Ân đã dành mối quan tâm lớn nhất cho thể loại trường ca. Những nhận xét đưa ra tuy vẫn dè dặt nhưng lại vô cùng quan trọng đối với phê bình và sáng tác văn học thời điểm ấy.
Sau này, khi Vũ Văn Sỹ đề cập đến trường ca, ông đặc biệt chú ý đến vai trò của thể loại trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại. Trong bài Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại tác giả đã luận giải một cách hợp lí về sự phát triển của thể loại này. Đặc biệt, năm 1999 Hoàng Ngọc Hiến đã xuất bản giáo trình Năm bài giảng về thể loại và một trong số những vấn đề được ông đưa ra là “Mấy vấn đề đặc trưng thể loại và thi pháp của trường
ca”. Đây là lần đầu tiên thể loại trường ca mới ở Việt Nam được đưa vào giáo trình. Có thể nói Hoàng Ngọc Hiến là người dành nhiều tâm sức cho việc nghiên cứu trường ca. Từ các bản dịch, các bài giới thiệu về trường ca của Maicôpxki, các lí thuyết về thể loại của Nga, ông đã khái quát nên những đặc điểm cơ bản của trường ca hiện đại như: nội dung lớn, cảm hứng lớn, mối tương quan giữa tự sự và trữ tình... Có thể nhận thấy đây là công trình công phu, kết hợp chặt chẽ lí thuyết và thực tiễn với cách trình bày mang tính mô phạm, tuy ngay trong cách đặt tên quyển sách đã ít nhiều mang tính nội bộ.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 1
- Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 2
- Quá Trình Sáng Tác Của Nhà Thơ Hữu Thỉnh
- Người Lính Khi Đối Diện Với Hiện Thực Khốc Liệt Của Chiến Tranh
- Lí Tưởng Cách Mạng Và Hành Trình Đi Tới Chiến Thắng
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Về những nghiên cứu mang tính trường qui, chúng tôi thấy trường ca ít nhiều đã được quan tâm, tuy số lượng các công trình vẫn còn ít và chủ yếu là đề cập đến một vài khía cạnh, một vài tác giả viết trường ca. Từ luận văn thạc sĩ trở lên, có thể kể đến một số công trình như: Chất sử thi trong trường ca hiện đại 1954 – 1985 của Lê Thị Hồng Liên (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm Huế - 2001); Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến đầu thế kỉ XXI của Đào Thị Bình (Luận án tiến sĩ, 2008); Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo của Mai Bá Ấn (Luận án tiến sĩ, 2008). Những công trình này tuy không nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp thể loại nhưng đều là những tài liệu bổ ích cho người nghiên cứu và người viết trường ca. Đặc biệt qua đây cũng thấy được, hiện nay trường ca đang là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, để ý.
Gần đây, nghiên cứu trường ca dường như lại trở nên sôi nổi với các cuộc tọa đàm: về Trường ca Trầm tích (Hoàng Trần Cương) năm 2002, hai cuộc tọa đàm về trường ca của Trần Anh Thái; với vô số các bài viết trên mạng Internet; với sự hồi phục của một số tác phẩm được khai sinh bởi những tên tuổi lớn một thời bị lãng quên như trường ca của Trần Dần, Văn Cao...và sự ra đời của một số dạng trường ca mới. Điều đó cho thấy thể loại này ở Việt Nam vẫn tiềm tàng một lực hấp dẫn lâu bền.
1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề và sự hình thành thể loại.
Có thể nói, trước 1945, dạng trường ca hiện đại hầu như chưa có. Tuy nhiên những tiền đề để hình thành nó thì đã tiềm tàng từ xa xưa, trong sâu thẳm hoài vọng của dân tộc. Có thể do hạn chế về thời đại, đặc biệt về mặt tư duy, mà tầm vóc vĩ đại của trường ca chưa được khẳng định, chưa được khởi sắc. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có hai tiền đề chính cho sự hình thành của trường ca hiện đại.
Trạng thái chống chiến tranh liên miên – tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của trường ca. Việt Nam là mảnh đất đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng hay nhiều thiết chế văn hóa sau này dĩ nhiên đều không thể tách rời yếu tố gốc rễ ấy. Có lẽ, cũng từ cội nguồn này mà trạng thái xã hội truyền thống Việt Nam đa phần là bình lặng. Nhịp độ sống trong truyền thống của người Việt là chậm rãi, là đủng đỉnh, ngại ngùng trước những đổi thay. Điều này đã được thể hiện rất rò trong văn thơ trung đại. Đó là những bài thơ tĩnh lặng trong đêm mưa của Nguyễn Trãi, hay giống như “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” của Nguyễn Khuyến..Cũng bởi lẽ bản chất con người là yên phận, ít tham vọng bá vương và qui phục. Cũng bởi lẽ, những đổi thay trong xã hội đa phần làm người ta sợ hãi, vì những bất thường trong xã hội ấy đều gắn liền với chiến tranh, mà có lẽ ba điều người ta sợ nhất là ốm đau, đói nghèo và chiến tranh; trong đó chiến tranh vẫn khủng khiếp hơn cả vì nó là bất thường nhất, và nó là tai họa của toàn xã hội, toàn dân tộc chứ không riêng một gia đình nào. Đương nhiên, một trạng thái xã hội bình lặng thì khó sinh ra trường ca.
Song không phải sống điềm đạm trung dung thì không có sức mạnh cộng đồng. Bởi cái “đạm” trong phong cách người châu Á nói chung và người Việt nói riêng khi được đánh thức cũng đầy uy lực. Người Việt lúc bình
thường ngại va chạm nhưng khi có tai biến thì biết gồng mình và dám hy sinh. Cuộc sống thiên về tập thể tạo cho họ có tình yêu quê hương đất nước nồng nàn. Điều này luôn là những tiền đề cho những bản trường ca. Có thể nói chiến tranh chính là lúc ý thức cộng đồng của người Việt được thức tỉnh mạnh mẽ nhất, và trạng thái chống chiến tranh liên miên cũng tạo cho người ta tâm thế hướng đến bảo vệ đời sống cộng đồng, bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Chỉ tính sơ bộ, từ cuộc kháng chiến chống Tần (Thế kỉ III Tr.CN) đến cuộc chiến tranh chống xâm lược từ hai đầu biên giới (1979). Dân tộc ta đã trải qua 20 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Có thể nói hơn 20 thế kỉ vừa qua, hầu như thế kỉ nào người Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đều là bất khả kháng, cần thiết phải xẩy ra (bởi Việt Nam là nước nhỏ, thường bị nước khác kéo quân sang xâm lấn, cho nên đó là hình thức tự vệ cần thiết). Và vì thế chiến tranh Việt Nam thường thể hiện lòng yêu nước của nhân dân và là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như Hêghen đã phân tích, “không có nghĩa là mọi cuộc chiến tranh bình thường giữa hai dân tộc đối địch nhau đều là sự kiện sử thi...Cuộc chiến tranh còn phải diễn ra nhân danh một đòi hỏi có tính toàn nhân loại và có tính lịch sử ...” [24, 597]. Có thể nói, chính ý nghĩa của cuộc chiến tranh mới làm nên giá trị của nó. Điều này, ngoài ý nghĩa chính trị và xã hội, nó sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tới tâm thức cộng đồng, tới lòng tự hào dân tộc. Với dạng trường ca mang tính chất sử thi nói riêng điều đó có ý nghĩa vô cùng quyết định, bởi không có tâm thức cộng đồng, không có lòng tự hào dân tộc thì mọi tiềm năng của thể loại đều bị xóa bỏ.
Trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đặc biệt là những cuộc chiến chống lại giặc ngoại xâm, dù dưới chế độ nào, đều có sự tham gia tích cực của nhân dân. Trước Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân và vai trò của nhân dân ít được
nhắc đến trong văn học, trong quan niệm phong kiến họ vẫn là dân đen, con đỏ, nhưng với lòng yêu nước, trong các cuộc kháng chiến, họ đều tự nguyện dốc hết sức mình. Không thể có chiến thắng nếu vắng bóng dáng họ. Nhân dân là lực lượng đại diện cho sức mạnh cộng đồng, vì thế cũng mang đậm tâm thức, ý thức cộng đồng. Các thể loại văn học mang tính chất sử thi luôn lấy đó làm tiền đề, làm cơ sở.
Với một lịch sử như thế, đương nhiên, chủ nghĩa yêu nước là truyền thống lớn nhất trong văn học Việt Nam. Và âm hưởng anh hùng ca trong sử thi có dấu ấn trong toàn bộ nền văn học chống chiến tranh ở Việt Nam, từ văn học trung đại đến hiện đại. Quả thật cha ông ta từ xưa đã không ngừng xây lên những Đại tự sự. Từ các truyền thuyết như Thánh Gióng, Nỏ thần...đến hào khí Đông A, văn thơ thế kỉ XIX, văn thơ cách mạng hiện đại...tất cả đều xoay quanh sự sống còn của dân tộc. Trường ca hiện đại đã nối tiếp mạch tự sự ấy và lấy đó như là linh hồn của mình. Như vậy, trạng thái chống chiến tranh liên miên vừa là tiền đề xã hội, vừa là tiền đề nội dung của trường ca.
Thơ trường thiên – tiền đề của tư duy về hình thức của trường ca hiện đại. Các thể loại thường có sự kế thừa lẫn nhau giữa, nhất thiết phải hồi đáp những thể loại khác cũng như với những điều kiện xã hội khuôn đúc lên chúng. Điều đó có nghĩa là, các thể loại như là sự liên thông và diễn giải lẫn nhau, và như vậy, chắc chắn trường ca cũng là sự hồi đáp của một tư duy về thể loại đã có trong lịch sử. Do dung lượng hạn chế của luận văn cho nên tìm hiểu mối quan hệ và tương quan giữa trường ca hiện đại và các thể thơ trường thiên trước đây sẽ được chúng tôi phân tích ngắn gọn trên cứ liệu ba thể loại
tiêu biểu thuộc dòng văn học viết: diễn ca lịch sử, truyện nôm và ngâm khúc.
Trước tiên xin được bàn về diễn ca lịch sử. Diễn ca lịch sử là những tác phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội dung đều dựa vào quốc sử cùng với truyền thuyết dân gian. Thể lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ quen
thuộc mà diễn ca lịch sử sử dụng. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một số tác phẩm diễn ca lịch sử tiêu biểu như: Việt sử diễn âm, Thiên Nam minh giám, Thiên Nam ngữ lục, (hầu hết chưa biết tác giả là ai?)...Nhìn chung về dung lượng, diễn ca lịch sử là dạng thơ trường thiên đầu tiên ở Việt Nam. Qui mô của nó tạo nền tảng chuẩn bị cho tất cả các thể văn vần dài hơi sau này. Diễn ca lịch sử chú ý đến sự kiện và nhân vật lịch sử, nhưng nó lại không hoàn toàn là chính sử, nó vẫn mang trong mình các yếu tố truyền thuyết và gia tăng thêm yếu tố hư cấu. Về chủ đề của diễn ca lịch sử đều liên quan đến lịch sử đất nước, cộng thêm cách diễn đạt giàu cảm xúc làm cho tác phẩm diễn ca mang đậm chất sử thi. Các yếu tố này dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, nhưng bóng dáng của nó thấp thoáng trong kiểu trường ca mang khuynh hướng sử thi của văn học Việt Nam hiện đại.
Thể loại thứ hai cần được nhắc đến là ngâm khúc. Theo chúng tôi, đây là thể loại có dấu ấn đậm nét trên kết cấu bề mặt của trường ca. Một số tác phẩm nổi tiếng như: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm), ....Đây là thể loại nghiêng về biểu hiện thế giới nội tâm, thể hiện nỗi buồn đau triền miên, dai dẳng. Có thể nói cơ cấu mạch trữ tình – tự sự của khúc ngâm tương ứng với mạch trữ tình – tự sự của dạng trường ca được xếp vào loại hình trữ tình - loại phổ biến trong trường ca hiện đại.
Thể loại thứ ba chính là truyện Nôm, mà chủ yếu là truyện Nôm bác học. Phần lớn các truyện này vay mượn cốt truyện Trung Quốc hoặc tự sáng tác. Có thể nói, đây là dạng tự sự hư cấu – thiên về sáng tác các câu chuyện đời thường tương tự tiểu thuyết. Các tác phẩm tiêu biểu như: Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên..(Nguyễn Đình Chiểu)...Trong tương quan với thể loại dài hơi sau này, có một số điểm theo chúng tôi là đáng chú ý: Thứ nhất, vì đều được viết bằng văn vần nên các tác
phẩm này thường kết hợp cả trữ tình và tự sự. Thứ hai, ngôn ngữ trần thuật bằng văn vần đến truyện Nôm đã đạt đến mức độ phong phú và khá nhuần nhuyễn, điều này đã trở thành hành trang cho các thi sĩ hiện đại sáng tác, kể lại những câu chuyện đáng tự hào của đất nước mình.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, một thể loại không thể khai sinh trên mảnh đất trống. Sự liên thông và diễn giải lẫn nhau luôn là đặc điểm của một nền văn học có truyền thống. Các thể loại văn học nêu trên có thể không giống với trường ca hiện đại nhưng nó có liên quan và góp phần diễn giải – đặc biệt về mặt hình thức của trường ca. Chính tính sử thi, tính anh hùng ca tồn tại trong các thể loại văn học quá khứ đã ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung lớn – hay tư duy thể loại của trường ca.
1.1.3.2. Sau 1945 – thời kì phát triển và khẳng định của trường ca.
Một nền văn học phát triển hoàn toàn trong chiến tranh bao giờ cũng mang những nét đặc biệt của nó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền văn học bắt đầu phát triển theo những yêu cầu, những định hướng tiêu chí mới. Văn học được định hướng theo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng và là một bộ phận, một vũ khí trong sự nghiệp cách mạng. Đó là nền văn học cách mạng hướng về đại chúng, phục vụ công nông binh. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tinh thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn – chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ yếu của nghệ sĩ. Hai câu thơ tiêu biểu cho định hướng văn học thời kì này là:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi – Hồ Chí Minh)
Định hướng này càng về sau, đặc biệt bước sang cuộc chiến tranh chống Mỹ, lại càng được quán triệt một cách triệt để. Như vậy, văn học từ mục đích là hướng tới số phận con người đã chuyển sang hướng tới số phận