Đặc Trưng Của Pháp Luật Liên Minh Châu Âu Về Bảo Hộ Nhãn Hiệu


Theo điều 7.1 của CTMR, các trường hợp sau đây sẽ bị từ chối [22]:


(a) Các dấu hiệu không được thể hiện dưới dạng hình hoạ và/hoặc không có khả năng phân biệt hàng hóa và dịch vụ của cơ sở kinh doanh này với hàng hóa và dịch vụ của cơ sở kinh doanh khác.

(b) Các nhãn hiệu không có bất kỳ một đặc tính phân biệt nào.


Cơ sở từ chối tuyệt đối này cũng phù hợp với Công ước Paris về sở hữu công nghiệp quy định tại điều 6 mục B2 [37]: Các nhãn hiệu nằm trong các trường hợp được quy định trong điều này sẽ không bị từ chối đăng ký hoặc bị tuyên vô hiệu trừ các trường hợp khi chúng không chứa đựng bất kì đặc tính phân biệt.

(c) Các nhãn hiệu chỉ gồm các dấu hiệu hoặc các chỉ dẫn sử dụng trong thương mại để chỉ rõ chủng loại, chất lượng, số lượng, tính năng, giá trị sử dụng, nguồn gốc địa lý hoặc thời gian sản xuất của hàng hóa hoặc dịch vụ, hoặc những đặc điểm khác của hàng hóa hoặc dịch vụ.

Tuy nhiên cơ sở từ chối này sẽ không áp dụng đối với các dấu được cho là mang tính mô tả cục bộ. Việc từ chối cho những nhãn hiệu mang tính mô tả như trên là nhằm ngăn cản việc sử dụng độc quyền những thuật ngữ phục vụ cho việc mô tả hàng hoá hoặc dịch vụ một cách phù hợp và chính đáng trong thương mại hàng hoá.

(d) Những nhãn hiệu chỉ gồm các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn trở nên thông dụng trong ngôn ngữ hiện hành hoặc được trong hoạt động thương mại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.

Cơ sở để từ chối này là hợp lý vì nếu cho phép bảo vệ nhãn hiệu đối với những thuật ngữ thông dụng sẽ tạo cho người sở hữu nhãn hiệu một quyền độc quyền và sẽ loại bỏ những đối thủ cạnh tranh khác sử dụng thuật ngữ tương tự mà thuật ngữ đó có thể là để mô tả hàng hóa và dịch vụ của họ.

(e) Các dấu hiệu chỉ gồm:

Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu - 5


- Hình dáng tự nhiên của hàng hoá


Các dấu hiệu chỉ gồm hình dáng tự nhiên của hàng hoá thì sẽ bị từ chối. Thực vậy, nếu có sự độc quyền về hình dáng tự nhiên (hoặc theo chức năng) của hàng hoá thì sẽ dẫn đến tình huống những đối thủ cạnh tranh khác không thể sản xuất hay phân phối chính những sản phẩm đó. Tuy nhiên, đúng như quy định “chỉ gồm” hình dáng tự nhiên của hàng hoá, các nhãn hiệu có thêm yếu tố phân biệt khác, ngoài yếu tố hình dáng của hàng hoá, vẫn được bảo hộ.

- Các nhãn hiệu trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội.


Những dấu hiệu trái đạo đức hoặc trật tự công cộng sẽ bị từ chối. Tuy nhiên, rất khó xác định thế nào là “ngược lại với lợi ích công cộng” và “trái với đạo đức xã hội”, cũng như càng khó hơn trong việc xác định khi nào thì OHIM áp dụng những điều khoản đó. Hơn nữa, các chuẩn mực để xác định tính trái đạo đức hoặc ngược lại lợi ích công cộng vào mỗi thời điểm là khác nhau. Nhưng, hiển nhiên những dấu hiệu là những câu nói tục, hoặc những hình ảnh mang tính kỳ thị chủng tộc sẽ bị coi là trái với đạo đức xã hội và sẽ bị từ chối.

Việc xác định một dấu hiệu như thế nào bị coi là trái với trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội là theo pháp luật của nước thành viên, do đó, nếu một dấu hiệu là đi ngược lại nguyên tắc đạo đức của một quốc gia thành viên thì nó sẽ bị từ chối bảo hộ trong tất cả các quốc gia thành viên. Lý do này cũng tương tự được áp dụng nếu dấu hiệu là thông dụng trong bất cứ ngôn ngữ nào của Liên minh châu Âu.

- Những nhãn hiệu mà về bản chất có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa hoặc dịch vụ.

Khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng có thể là nhầm lẫn về chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa. Pháp luật NHCĐ không liệt kê các trường hợp được coi là gây nhầm lẫn, mà điều này tuỳ thuộc vào nhận định theo quan điểm của xét nghiệm viên hoặc thẩm phán.

- Những nhãn hiệu đăng ký không được sự cho phép của cơ có thẩm quyền và bị từ chối theo điều 6 của Công ước Paris.


Đây là những nhãn hiệu có chứa những dấu hiệu là biểu tượng hoặc hình ảnh của quốc gia thành viên, do đó, những nhãn hiệu này sẽ bị từ chối bảo hộ nếu như người nộp đơn không được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó. Vấn đề này phù hợp với điều 6 của Công ước Paris [37]. Ví dụ, phán quyết của tòa cấp phúc thẩm Paris không cho đăng ký dấu hiệu kết hợp gồm 12 ngôi sao, được sắp xếp thành vòng tròn quanh chữ “O” đi cùng với từ EUROPRESSE, vì dấu hiệu này được xem là gần với biểu tượng của Liên minh châu Âu.

- Nhãn hiệu bao gồm các biểu trưng, biểu tượng, huy hiệu (ngoại trừ những cái đã được đề cập theo điều 6 của Công ước Paris) và những dấu hiệu thuộc về lợi ích của công chúng"

Vấn đề này, hiện tại OHIM chưa xây dựng được danh mục tham khảo cho các biểu tượng mà được xem là thuộc về lợi ích cộng đồng.

- Nhãn hiệu cho rượu vang có chứa chỉ dẫn địa lý để xác định vang hoặc nhãn hiệu cho rượu mạnh có chứa chỉ dẫn địa lý để xác định rượu mạnh cho những loại rượu vang hoặc rượu mạnh không có chỉ dẫn địa lý đó.

Theo quy định này thì không thể đăng ký một dấu hiệu có chứa chỉ dẫn địa lý cho rượu vang hoặc rượu mạnh mà rược vang hoặc rượu mạnh này không có chỉ dẫn địa lý. Ví dụ, một dấu hiệu chứa Bordeaux cho loại rượu không được làm từ vùng Bordeaux thì sẽ bị từ chối. Nội dung từ chối này tương tự với việc từ chối vì lý do có khả năng lừa dối công chúng về nguồn gốc của hàng hoá.

Mặc dù, về nguyên tắc nhãn hiệu thuộc một trong các trường hợp nêu trên sẽ bị từ chối, nhưng pháp luật NHCĐ vẫn dành ngoại lệ cho các trường hợp quy định tại điểm 1.b, c và d của điều 7 CTMR [22], cụ thể sẽ không áp dụng cơ sở từ chối tuyệt đối nếu nhãn hiệu trở nên phân biệt thông qua quá trình sử dụng cho các hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu. Do đó, nếu người nộp đơn có thể chứng minh nhãn hiệu xin đăng ký, trong thực tế, đã trở nên phân biệt qua quá trình sử dụng thì nhãn hiệu đó sẽ không bị từ chối đăng ký theo cơ sở từ chối tuyệt đối.

1.4.2.2. Cơ sở từ chối tương đối


Tiêu chuẩn bảo hộ của một nhãn hiệu, như trình bầy ở trên, không chỉ được xem xét trên cơ sở các lý do từ chối tuyệt đối, theo quy định của pháp luật NHCĐ, còn được xem xét trong các lý do phản đối do bên thứ ba đưa ra dựa trên các đơn nhãn hiệu đăng ký trước, hoặc dựa trên nhãn hiệu có trước của chủ sở hữu đích thực. Vì không phải đơn NHCĐ nào cũng bị bên thứ ba phản đối, tuỳ theo mục đích và mức độ quan tâm, mà bên thứ ba có thể tiến hành phản đối đơn NHCĐ, do đó, cơ sở từ chối được xác định trên yêu cầu của bên thứ ba này được gọi là cơ sở từ chối tương đối. Hơn nữa, tính tương đối còn được thể hiện ở những lý do mà bên thứ ba đưa ra thường mang hàm ý tương đối. Các trường hợp đơn bị từ chối tương đối được quy định tại điều 8 của CTMR như sau [22]:

- Trùng lặp về nhãn hiệu và trùng lặp về hàng hoá và/hoặc dịch vụ của nhãn hiệu có trước.

- Có khả năng gây nhầm lẫn, bao gồm khả năng liên tưởng đến nhãn hiệu có trước.

- Gây ra lợi thế không công bằng, hoặc gây tổn hại đến tính phân biệt hoặc danh tiếng của nhãn hiệu có trước.

- Đăng ký nhãn hiệu dưới danh nghĩa của đại diện hoặc đại lý mà không được phép của chủ sở hữu trừ trường hợp có lý do chính đáng.

- Xung đột với nhãn hiệu có trước chưa đăng ký thuộc quyền sở hữu của người

khác.


Như vậy, theo CTMR, tiêu chuẩn để đánh giá khả năng bảo hộ của một nhãn

hiệu được dựa trên việc xem xét liệu nhãn hiệu đó có thuộc một trong các trường hợp từ chối tuyệt đối hay không, và đồng thời nhãn hiệu đó có bị phản đối bởi bên thứ ba theo một trong năm lý do như đã đề cập ở trên hay không.

1.5. Phân loại nhãn hiệu


Dựa vào đặc điểm của chủ sở hữu nhãn hiệu là một tổ chức, cá nhân độc lập hay gồm nhiều tổ chức, cá nhân mà nhãn hiệu được phân thành một số loại nhãn hiệu như sau:

(i) Nhãn hiệu tập thể


Nhãn hiệu cũng là một loại tài sản, bởi vậy, xét dưới góc độ hình thức sở hữu


của tài sản, nhãn hiệu cũng có thể được sở hữu chung bởi nhiều chủ thể. Các chủ sở hữu chung này đều có quyền thực hiện quyền năng chủ thể đối với nhãn hiệu bao gồm đầy đủ các quyền năng như quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng nhãn hiệu. Tuy nhiên, do đặc thù của loại tài sản này là phải đảm bảo tính phân biệt, do đó, trong quá trình sử dụng, các đồng sở hữu phải tuyên theo một quy chế sử dụng chung do chính các đồng sở hữu thoả thuận để nhằm đảm bảo tính phân biệt của hàng hoá mang nhãn hiệu của các đồng sở hữu với các hàng hoá mang nhãn hiệu của các chủ thể không phải là đồng sở hữu. Tính “tập thể” ở đây chính là đặc điểm đồng sử dụng nhãn hiệu theo một quy chế chung. Như vậy, “nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”. Khái niệm này được pháp luật của tất cả các nước trên thế giới thừa nhận bao gồm cả hệ thống pháp luật EU [22, điều 64] và Luật SHTT Việt Nam [3, điều 4.17].

(ii) Nhãn hiệu thuộc sở hữu riêng


Hều hết các loại nhãn hiệu được sử dụng phổ biến là loại nhãn hiệu thuộc sở hữu riêng của một cá nhân hay một tổ chức. Các loại nhãn hiệu này có đặc điểm về chủ sở hữu là chỉ do một chủ thể là chủ sở hữu.

Dựa trên khả năng phân biệt, nhãn hiệu có thể được chia thành:


(i) Nhãn hiệu liên kết


Nhãn hiệu có chức năng quan trọng nhất là chức năng phân biệt. Phạm vi của sự phân biệt là được xét đến giữa các nhãn hiệu của các chủ thể khác nhau. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp nhãn hiệu là tương tự nhau nhưng thuộc quyền sở hữu của cùng một chủ thể, khi đó các nhãn hiệu này được gọi nhãn hiệu liên kết. Tính liên kết ở đây là nói tới sự liên kết giữa các nhãn hiệu về mặt cấu tạo của chính bản thân các nhãn hiệu với nhau, mỗi một nhãn hiệu đều thể hiện một đặc điểm chung về mặt cấu tạo. Do đó, nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc


tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.


(ii) Nhãn hiệu chứng nhận


Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu.

(iii) Nhãn hiệu nổi tiếng


Khả năng phân biệt của một nhãn hiệu được xác định bằng số lượng người tiêu dùng nhận biết được nhãn hiệu trên thực tế. Một nhãn hiệu càng có nhiều người biết đến thì khả năng phân biệt nhãn hiệu đó càng cao. Khả năng phân biệt ở mức cao nhất của nhãn hiệu được xác định bằng khái niệm nổi tiếng. Pháp luật của tất cả các nước đều thừa nhận khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi phân biệt của nhãn hiệu đạt đến một mức như thế nào được coi là đạt tiêu chuẩn để trở thành một nhãn hiệu nổi tiếng thì tuỳ thuộc vào quy định riêng của từng nước.

Hệ thống pháp luật EU đồng không có quy định cụ thể như thế nào là nhãn hiệu nổi tiếng, mà quy định này là do pháp luật quốc gia của nước thành viên quy định. Còn theo Luật SHTT Việt Nam “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” [5, điều 4.20].

(iv) Nhãn hiệu thông thường


Mặc dù khái niệm nhãn hiệu thông thường không phải là một khái niệm được ghi nhận trong pháp luật của các nước, kể cả Luật SHTT Việt Nam. Nhưng để phân biệt với các loại nhãn hiệu được đề cập ở trên cũng như nhãn hiệu đặc biệt được đề cập dưới đây, chúng tôi sử dụng khái niệm nhãn hiệu thông thường.

Nhãn hiệu thông thường, trong phạm vi nghiên cứu này, được hiểu là một nhãn hiệu hiệu hàng hoá dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá


nhân khác nhau nhưng không phải là nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu nổi tiếng, nhãn hiệu liên kết và không phải là nhãn hiệu mùi, màu sắc, âm thanh (nhãn hiệu đặc biệt). Nhãn hiệu thông thường được phân thành các loại sau:

- Nhãn hiệu từ ngữ: là nhãn hiệu được cấu tạo bởi một dấu hiệu là một từ hoặc một ngữ hoặc các ký tự của bất kỳ ngôn ngữ nào. Quy chế của Liên minh châu Âu không hạn chế ngôn ngữ mà nhãn hiệu được thể hiện. Bất cứ một từ ngữ thuộc bất cứ ngôn ngữ nào đều có thể sử dụng là NHCĐ miễn là từ ngữ đó đáp ứng đủ hai điều kiện như chỉ ra trong định nghĩa nêu trên.

- Nhãn hiệu hình: là nhãn hiệu chứa yếu tố hình. Ngoài ra, một nhãn hiệu có từ ngữ được thể hiện dưới dạng hình ảnh cũng được coi là nhãn hiệu hình. Yếu tố hình có thể có màu sắc hoặc không mầu sắc.

- Nhãn hiệu mầu sắc: là nhãn hiệu được cấu thành bởi một màu hoặc một vài màu sắc cơ bản không liên quan đến sự mô tả hình dạng hoặc hình thể sản phẩm.

- Nhãn hiệu ba chiều: thông thường là hình dạng của vật chứa sản phẩm, bao gói sản phẩm hoặc chính sản phẩm.

(v) Nhãn hiệu đặc biệt


Cho đến hiện nay, không có bất cứ một điều ước quốc tế nào liên quan đến nhãn hiệu quy định một cách rõ ràng việc bảo hộ các nhãn hiệu dạng đặc biệt là âm thanh hoặc mùi vị đặc trưng của hàng hoá hoặc dịch vụ. Ngay cả Hiệp ước về luật Nhãn hiệu, Công ước Paris, Thoả ước Madrid và Nghị định thư Madrid cũng không có quy định về bảo hộ các nhãn hiệu thuộc dạng đặc biệt này. Tương tự, Hiệp định TRIPS cũng không quy định về việc bảo hộ các nhãn hiệu này mà quy định các quốc gia thành viên có thể giới hạn sự bảo hộ của quốc gia đối với những nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được. Sự bảo hộ các nhãn hiệu dạng đặc biệt tuỳ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia. Theo Điều 72 Luật SHTT, pháp luật Việt Nam không bảo hộ các nhãn hiệu này. Hệ thống pháp luật EU không quy định rõ về việc bảo hộ các nhãn hiệu này, nhưng theo định nghĩa các nhãn hiệu dạng này vẫn có thể


được bảo hộ. Bởi vậy, trong thực tiễn đã có một số nhãn hiệu dạng này đã được bảo hộ với điều kiện rằng chúng phải được thể hiện dưới dạng hình hoạ và có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác.

1.6. Chức năng của nhãn hiệu


Đề cập đến nhãn hiệu là đề cập đến chức năng của nhãn hiệu. Chức năng của nhãn hiệu luôn luôn và bao giờ cũng gắn liền với nhãn hiệu, không nằm ngoài nhãn hiệu. Trong các chức năng của nhãn hiệu, chức năng phân biệt là quan trọng bậc nhất, quyết định việc một dấu hiệu có được coi là nhãn hiệu hay không phải là nhãn hiệu, bởi vậy ngay trong định nghĩa về nhãn hiệu đã quy định nhãn hiệu là dùng hiệu dùng để phân biệt. Sự tồn tại của nhãn hiệu luôn gắn liền với sự tồn tại của chức năng phân biệt của nó. Điều đó có nghĩa là khi nào chức năng phân biệt mất đi, nhãn hiệu lúc đó là đối tượng bị yêu cầu huỷ bỏ. Ngoài ra, nhãn hiệu còn có các chức năng phụ sau đây: chức năng biểu thị chất lượng của hàng hoá hoặc dịch vụ; chức năng chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hoá hoặc dịch vụ; chức năng biểu thị mức độ uy tín của nhà sản xuất; chức năng quảng cáo.‌

1.7. Đặc trưng của pháp luật Liên minh châu Âu về bảo hộ nhãn hiệu


1.7.1. Tính thống nhất chung


Tính thống nhất chung là một đặc tính cơ bản của NHCĐ, cụ thể Văn bằng bảo hộ NHCĐ có hiệu lực chung và thống nhất trong toàn bộ phạm vi lãnh thổ của Liên minh châu Âu, hiệu lực này là ngang bằng tại mỗi quốc gia thành viên. Không thể lựa chọn sự bảo hộ cho nhãn hiệu chỉ trong một hoặc một số nước thành viên khi tiến hành nộp đơn NHCĐ. Nếu NHCĐ bị từ chối hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực chỉ trong một nước thành viên, thì toàn bộ đơn hoặc văn bằng bảo hộ NHCĐ sẽ bị từ chối và huỷ bỏ trong toàn bộ phạm vi lãnh thổ của Liên minh châu Âu.

Ngoài ra, tính thống nhất chung còn thể hiện ở chỗ, một đơn sẽ bị từ chối trên cơ sở tuyệt đối [22, điều 72], thậm chí lý do từ chối đó chỉ do một nước thành viên đưa ra, nhưng giá trị của nó là được coi như sự từ chối của toàn bộ cộng đồng.

Xem tất cả 139 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí