Nội Dung Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vai Trò Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đối Với Việc Phát Triển Của Dnn&v Trong Lĩnh


Xuất phát từ đặc điểm của các DNN&V như quy mô vốn và tài sản nhỏ bé; sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất kinh doanh; trình độ tay nghề công nhân viên cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn ở mức thấp; sổ sách và báo cáo kế toán thường không rõ ràng và minh bạch;… Do đó, quan hệ tín dụng giữa DNN&V với các NHTM thường có quy mô tín dụng rất thấp nếu tính bình quân trên một DNN&V; cũng do DNN&V có quy mô nhỏ nên mục đích sử dụng của vốn vay chủ yếu nhằm bổ sung vốn lưu động nên cũng làm cho quy mô vay của DNN&V thường nhỏ bé. Vì thế, thời hạn tín dụng chủ yếu là vay ngắn hạn; hầu hết các DNN&V phải có tài sản đảm bảo khi vay vốn các NHTM và ít được ưu đãi về lãi suất.

DNN&V dễ gặp khó khăn trong việc trả nợ vay khi có sự biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ như: lạm phát, khủng hoảng kinh tế, tài chính… Do vậy, quan hệ tín dụng giữa DNN&V với các NHTM tiềm ẩn các rủi ro. Cụ thể như: i) Tình trạng thông tin bất cân xứng làm cho ngân hàng không nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro của DNN&V một cách toàn diện và đầy đủ, do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn khi quyết định cho vay. Các DNN&V, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường kinh doanh dựa vào mối quan hệ quen biết và manh mún nên ngân hàng khó phát hiện được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi đã giải ngân. ii) Khả năng tài chính của các DNN&V bị hạn chế, cụ thể là vốn tự có thấp do đó khi gặp khó khăn thì dễ bị mất tính thanh khoản, dẫn đến việc thu hồi nợ vay của ngân hàng sẽ gặp khó khăn. iii) Việc sử dụng vốn sai mục đích của các DNN&V cũng làm nảy sinh các rủi ro mất vốn của ngân hàng, các DNN&V thường sử dụng vốn vay cho mục đích cá nhân và gia đình. iv) Các DNN&V kinh doanh thường phụ thuộc vào một số khách hàng lớn, khi những khách hàng này gặp khó khăn thì DNN&V cũng sẽ khó khăn theo, từ đó gặp rủi ro cho ngân hàng. v) Khả năng quản lý tài chính yếu kém của các DNN&V cũng làm nảy sinh các rủi ro cho ngân hàng trong việc thu nợ vay đúng hạn.

Xuất phát từ đó, để thể hiện được vai trò của mình, trong hoạt động cho vay các NHTMCP cần chú ý tới việc hướng dẫn sử dụng vốn cho có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý tình hình sử dụng vốn đối với DNNVV.

Thứ ba, đối tượng vay là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CN&XD nên hoạt động cho vay của NHTMCP phải chú ý đến những khoản vay nhằm đổi mới công nghệ sản xuất, đổi mới kiểu dáng sản phẩm, nâng cao trình độ quản lý và trình độ lao động của doanh nghiệp.


Mặc dù là DNN&V nhưng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng thực hiện hoạt động sản xuất nên vẫn có nhu cầu vay vốn để đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng mẫu mã sản phẩm, đồng thời phải nâng cao trình độ kỹ thuật của ngươi lao động sản xuất cũng như trình độ quản lý sản xuất. Chính vì thế, bên cạnh cho vay vốn lưu động để mua nguyên nhiên vật liệu và trả lương công nhân, các DNN&V cũng vẫn cần một số vốn phù hợp để thực hiện đổi mới sản xuất. Vốn vay này vừa phải đủ về quy mô, vừa cần có thời gian hoàn trả dài hơn. Chính vì thế trong cơ cấu vốn vay của DNN&V, các ngân hàng cần đáp ứng nhu cầu này của doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao trình độ kỹ thuật và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.

2.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

2.2.1.Nội dung vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

2.2.1.1. Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc thay đổi quy mô, tốc độ tăng trưởng DNN&V vừa trong lĩnh vực CN&XD

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Quy mô, tốc độ tăng trưởng DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là việc xem xét đến mặt lượng thay đổi của các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD, nói đến quy mô của các doanh nghiệp này là nói đến lượng vốn của doanh nghiệp, là nói đến số lượng lao động đang làm việc cho các doanh nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD đo lường sự thay đổi về mặt lượng của các doanh nghiệp này, nó xem xét sự thay đổi năm sau của doanh nghiệp so với năm trước đó.

Có nhiều chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi quy mô, tốc độ phát triển DNN&V vừa trong lĩnh vực CN&XD, trong đó chủ yếu như như: i) Quy mô vốn đầu tư của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD; ii) Tốc độ thay đổi vốn của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD; iii) Quy mô doanh thu của của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD; iv) Số lượng lao động làm việc tại các DNN&Vtrong lĩnh vực CN&XD.

Vai trò hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần đối với phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An - 8

Khi xem xét đơn thuần về sự thay đổi của các doanh nghiệp, nếu quy mô vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng, quy mô lao động của doanh nghiệp tăng năm sau so với năm trước, điều đó có thể thấy doanh nghiệp có sự thay đổi tích cực, có sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và ngược lại. Tuy nhiên, đây


không phải là chỉ tiêu duy nhất để xem xét tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và DNN&V trong lĩnh vực CN&XD nói riêng. Tuy nhiên, do những đặc điểm, tính chất của mình, DNN&V trong lĩnh vực CN&XD gặp không ít những khó khăn trong việc phát triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng hiện nay của các DNN&V là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.

Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp, cần mất nhiều năm mới có thể có được đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn có thể không còn nữa. Do đó, các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là nguồn tín dụng ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của doanh nghiệp tăng lên thì các doanh nghiệp cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh tranh.

Bên cạnh đó, với khoản vốn vay từ các NHTMCP, các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD có thể góp phần nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động.

Bên cạnh đó, các khoản vay từ NHTMCP sẽ góp phần hỗ trợ các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD trong việc huy động vốn đầu tư, nguồn vốn này có thể trợ giúp các doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng đầu tư theo các lĩnh vực đa dạng hơn mà doanh nghiệp có thế mạnh,.. việc có vốn đầu tư giúp doanh nghiệp có tiềm lực để nắm bắt những cơ hội đầu tư mới, bởi đặc thù lĩnh vực hoạt động là công nghiệp và xây dựng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn đầu tư dường như dài hơn so với các lĩnh vực khác. Chính vì vậy, dòng vốn vay của các ngân hàng thương mại cổ phần cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực CN&XD có vai trò hỗ trợ rất lớn bên cạnh hỗ trợ doanh nghiệp liên quan đến lao động.

Thực tế cho thấy, vai trò to lớn của các khoản cho vay của ngân hàng đối với các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD và sẽ là quan trọng hơn đối với các doanh nghiệp đang hoạt động ở vùng nông thôn, những địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc mở rộng và nâng cao chất lượng các khoản tín dụng đối với các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là thực sự cần thiết .


2.2.1.2. Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc thay đổi cơ cấu DNN&V trong lĩnh vực CN&XD

Cơ cấu DNN&V là hệ thống chỉnh thể DNN&V và mối quan hệ tỷ lệ giữa các loại hình DNN&V trong tổng thể doanh nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận cơ cấu DNN&V, cụ thể là:

i) Cơ cấu theo quy mô như tỷ trọng doanh nghiệp quy mô nhỏ và tỷ trọng doanh nghiệp quy mô vừa trong tổng thể DNN&V;

ii) Cơ cấu doanh nghiệp theo ngành như tỷ trọng doanh nghiệp ngành công nghiệp và tỷ trọng doanh nghiệp ngành xây dựng trong tổng thể DNN&V;

iii) Cơ cấu kỹ thuật của doanh nghiệp như tỷ trọng doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật hiện đại, tỷ trọng doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật tương đối hiện đại, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật trung bình và tỷ trọng doanh nghiệp kỹ thuật lạc hậu trong tổng thể DNN&V ….

Khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn đồng vốn của mình sinh lời. Những đơn vị có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, các NHTMCP đã giải quyết những mâu thuẫn đó, với hoạt động đi vay để cho vay, các ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện những dự án kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện. Khoản tín dụng ngân hàng này sẽ có tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, các khoản vay của ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó, các khoản vay của các doanh nghiệp từ phía tổ chức tín dụng cụ thể là các NHTMCP làm thay đổi quan hệ cung - cầu hàng hoá và sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu DNN&V trong lĩnh vực CN&XD.

Các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD thường có vốn lưu động thấp so với nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp trong lĩnh vực này, nguồn vốn để mua vật tư hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và ngoài nước) chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng ngân hàng, mặt khác các khoản tín dụng ngân hàng này cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông mua bán hàng hoá .


Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ phần chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hoá có chất lượng cao, có sức cạnh tranh tốt, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu doanh nghiệp theo hướng hiện đại. Đối với những dự án vay vốn, những sản phẩm đầu ra của dự án không đáp ứng được nhu cầu của xã hội và yêu cầu của xã hội về chất lượng và giá thành sẽ khó để có thể tiếp cận được những khoản vay tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần, bởi tính rủi ro khi cho vay những dự án này.

Chính vì vậy, dòng vốn vay của các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có thể thay đổi cơ cấu sản phẩm, thay đổi cơ cấu của các doanh nghiệp theo hướng hiện đại hơn.

Thêm vào đó, để có thể thay đổi sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp về chất lượng cũng như về giá thành, sự thay đổi về công nghệ cũng nên được quan tâm, bởi vì, sự thay đổi công nghệ giúp các doanh nghiệp có được sự hỗ trợ tốt nhất, góp phần nâng cao năng suất lao động cũng như tiệm cận với yêu cầu về sản phẩm của thị trường. Nhưng để có được công nghệ mới, các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp nhỏ và vừa cần nhu cầu một lượng vốn lớn để có thể đảm bảo đổi mới công nghệ, lượng vốn này có thể có được từ nguồn vốn vay cả các ngân hàng thương mại cổ phần. Vì vậy, dòng vốn vay của ngân hàng thương mại cổ phần có vai trò vô cùng lớn trong việc hỗ trợ đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.

Việc nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay nghề người lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp và tăng năng suất lao động. Mặc dù hiểu được điều này nhưng các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ không muốn chi tiền để đào tạo, tất cả nguồn vốn doanh nghiệp đều tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, nếu doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn tín dụng từ NHTMCP sẽ làm tăng nguồn vốn hoạt động cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong công tác đào tạo của mình.

Với chất lượng sản phẩm đầu ra tốt, công nghệ sản xuất hiện đại, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có hội để tìm kiếm và mở rộng thị trường với các sản phẩm của mình, có cơ hội tiếp cận với các đối tác hợp tác mới, dòng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại cổ phần góp phần hỗ trợ doanh nghiệp rất tốt trong việc đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý và trình độ lao động để tạo ra sản phẩm có chất lượng, kiểu dáng phong phú, hấp dẫn hơn từ đó mà tìm kiếm đối tác và mở rộng thị trường.


2.2.1.3. Vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD

Chất lượng là tổng thể các tiêu chí, những đặc trưng sản phẩm thể hiện sự thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với công dụng mà người tiêu dùng mong muốn với chi phí thấp nhất và thời gian nhanh nhất.

Có nhiều chỉ tiêu phản ánh chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD, trong đó các chỉ tiêu chủ yếu như: i) Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD; ii)Tiền lương và thu nhập của lao động của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD; iii) Sự đóng góp cho NSNN của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD;…

Chất lượng sản phẩm của DNN&V là sự phù hợp với yêu cầu, yêu cầu này bao gồm cả các yêu cầu của khách hàng mong muốn thỏa mãn nhưng nhu cầu của mình trong quá trình sử dụng sản phẩm và cả các yêu cầu mang tính kỹ thuật, kinh tế và các tính chất pháp lý khác.

Khi đầu ra của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đó là thành công và tạo điều kiện quay ngược trở lại hỗ trợ tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh quyết định thành bại của chính bản thân doanh nghiệp

Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đến chất lượng sản phẩm của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là tương đối rõ ràng, cụ thể: Với đặc điểm nguồn vốn nhỏ, các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng khó đầu tư được công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ NHTMCP có thể coi là nguồn quan trọng để các doanh nghiệp này thực hiện được nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và những chi phí bỏ ra để có được kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao.

Vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần với hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Hoạt động cho vay của NHTMCP với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn gốc và có lãi”, nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao, đã thúc đẩy các DNN&V nói chung và cụ thể là các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng


nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn. Để có tiền cho các doanh nghiệp này vay, ngân hàng phải tiến hành huy động vốn và có quy định thời hạn trả vốn rõ ràng, như vậy ngân hàng cũng phải cân đối giữa nguồn huy động và nguồn cho vay sao cho phù hợp, đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng đã cân nhắc nguồn có khả năng giải ngân, và thời hạn cần thiết để thu hồi vốn. Cho nên đến thời hạn trả nợ, dù các doanh nghiệp làm ăn có lãi hay không cũng phải thực hiện nhiệm vụ trả nợ của mình. Do đó, bắt buộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải sinh lời. Thêm vào đó, khi cho vay ngân hàng thường xuyên kiểm tra tình hình kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp và họ chỉ cho vay những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, đảm bảo có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn tạo điều kiện nâng cao khả năng tối đa hoá lợi nhuận của các doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua cho vay, vốn tín dụng được cung cấp kịp thời tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh và nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Việc quản lý vốn thông qua quá trình hạch toán kinh tế góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp thêm vững chắc.

Khi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp được thiết lập thì cũng là lúc họ cùng bước trên một con đường. Vốn đã đưa vào kinh doanh thì cả ngân hàng và doanh nghiệp đều muốn nó quay lại với một lượng giá trị lớn hơn khi bỏ ra nên họ cùng nhau hợp tác để đồng vốn có lãi. Do đó, trước, trong và sau khi giải ngân, ngân hàng luôn quan tâm đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để có thể góp ý, tham gia trên những lĩnh vực mà ngân hàng biết, cũng bởi ngân hàng có quan hệ với rất nhiều các chủ thể kinh tế khác, vậy nên thông tin mà họ nắm bắt được cũng rất nhanh, chính xác giúp doanh nghiệp chủ động trước thời cơ cũng như thách thức, từ đó tìm ra các biện pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

2.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến vai trò hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần đối với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng

2.2.2.1. Môi trường thể chế cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần

Môi trường thể chế cho vay của ngân hàng biểu hiện qua những quy định, luật pháp của nhà nước, quy định cụ thể của các ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của các ngân hàng TMCP


Các quy định của Nhà nước về điều chỉnh, khống chế hoạt động của các ngân hàng theo mục tiêu an toàn trong hoạt động của ngân hàng và của nền kinh tế. Sự hạn chế hay nới lỏng trong quy định của Nhà nước đối với hoạt động của ngân hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu tổ chức, kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Ví dụ, quy định về cho phép mở chi nhánh hay không? Cho phép thực hiện loại nghiệp vụ nào?.... Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, luật pháp ít can thiệp cụ thể vào việc tổ chức của ngân hàng, mà thường là công nhận những gì mà các ngân hàng thực hiện nhằm phục vụ cho các hoạt động của nền kinh tế và không tiềm ẩn những rủi ro gây nên tình trạng bất ổn định cho nền kinh tế.

Các quy định chính sách về hoạt động cho vay của ngành ngân hàng đối với DNN&V Chính sách quy định về hoạt động cho vay của ngân hàng là một hệ thống các

biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hoạt động cho vay hoặc hạn chế hoạt

động cho vay để đạt mục tiêu đã được hoạch định, bảo đảm an toàn hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính sách về hoạt động cho vay đúng đắn đối với từng loại khách hàng sẽ thu hút được các khách hàng mục tiêu, đảm bảo khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Trong đó, muốn tăng trưởng tín dụng cho DNN&V trong lĩnh vực CN&XD thì chính sách của ngân hàng cần phải được thiết lập sao cho phù hợp với những nhu cầu đặc thù của đối tượng này.

2.2.2.2. Năng lực cho vay của các NHTMCP

Năng lực cho vay của NHTMCP biểu hiện khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần, việc sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại này có thể thông qua việc cho vay, đối tượng cho vay của các NHTMCP có thể là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân…

Khả năng huy động vốn của NHTMCP: Huy động vốn là quá trình NHTMCP nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá…, tiền vay của NHNN và các NHTMCP khác. Năng lực huy động vốn của một NHTMCP là khả năng tạo lập và phát triển nguồn vốn nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó chủ yếu là hoạt động cho vay. Do vậy năng lực huy động vốn của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng, sự phù hợp giữa các kì hạn huy động vốn với các kì hạn cho vay, từ đó ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng của ngân hàng.

Năng lực thẩm định dự án vay vốn của NHTMCP: Trong mọi nguồn lực, nguồn nhân lực là yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến thành công của hoạt

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 06/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí