động kinh doanh. Năng lực, trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thẩm định dự án vay vốn của NHTMCP quyết định rất lớn tới sự thành công trong hoạt động cho vay của NHTMCP đặc biệt là đối với các DNN&V, bởi nhu cầu của nhóm khách hàng này thường nhỏ nhưng đa dạng, đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải nắm chắc nghiệp vụ, am hiểu pháp luật, thị trường, kĩ năng giao tiếp tốt, có khả năng tổng hợp thông tin và đánh giá khách hàng, từ đó thẩm định khách hàng chính xác sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro về tín dụng.
Năng lực bộ máy quản lý của NHTMCP: Vấn đề then chốt trong quản trị điều hành của các NHTMCP chính là cách xác định hướng hoạt động của ngân hàng, đặt ra mục tiêu chiến lược, các kế hoạch phải thực hiện và phương thức thực hiện như thế nào. Ngân hàng sẽ thực sự kinh doanh vì lợi nhuận hay vẫn tiếp tục có một phần hoạt động với tư cách là ngân hàng chính sách chịu sự tác động của các cấp chính quyền về việc cho vay. Hay nói cách khác, ban lãnh đạo ngân hà ng có thực sự được chịu trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của ngân hàng hay không?
Năng lực quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ quyết định các chính sách về phát triển của ngân hàng như chiến lược phát triển dài hạn, chính sách đầu tư, chính sách huy động vốn, chính sách khách hàng, chính sách đầu tư và con ngườ i, cơ sở vật chất, công nghệ.
Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay của NHTMCP: Vấn đề then chốt có tính quyết định trong đổi mới phương thức quản lý là con người . Cần có chính sách đào tạo lại cán bộ quản lý các cấp và cả cán bộ quản lý cấp cao để nhanh chóng tiếp cận được với các phươ ng thức quản trị ngân hàng hiện đại. Đồng thời, có các chính sách thu hút nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực.
Các yếu tố khác thể hiện năng lực của NHTMCP:
+ Năng lực quản trị rủi ro của NHTMCP: Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, đồng tài trợ… rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm chất lượng tín dụng của NHTMCP.Khi chủ trương tăng trưởng tín dụng đối với DNN&V, năng lực quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng càng cần được đề cao bởi thông tin tài chính và hoạt động của đối tượng DNN&V chưa minh bạch, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát hiệu quả tín dụng.
+ Thông tin tín dụng của NHTMCP: Thông tin tín dụng giúp cho người quản lý đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài
khoản cho vay. Thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng càng cao giúp nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, đây lại là một trở ngại cần khắc phục khi tăng trưởng tín dụng cho DNN&V bởi những doanh nghiệp này thường thiếu minh bạch về thông tin tài chính và hoạt động.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần
- Phân Loại Dnn&v Theo Khu Vực Kinh Tế Ở Việt Nam
- Nội Dung Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Vai Trò Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đối Với Việc Phát Triển Của Dnn&v Trong Lĩnh
- Bài Học Thành Công Và Chưa Thành Công Rút Ra Cho Tỉnh Nghệ An
- Một Số Chỉ Tiêu Chủ Yếu Hoạt Động Tính Bình Quân Của Ngân Hàng Giai Đoạn 2012-2015
- Tình Hình Biến Đổi Dư Nợ Cho Vay Của Nhtmcp Và Quy Mô Và Tốc Phát Triển Của Dnn&v Trong Lĩnh Vực Cn&xd Giai Đoạn 2012-2015
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
+ Năng lực cung cấp dịch vụ với mức chi phí cạnh tranh của các NHTMCP: Xét từ góc độ của các ngân hàng thì giá cả dịch vụ là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các DNN&V nói chung và các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng nói riêng. Quy mô các giao dịch của các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD là nhỏ do vậy hệ số tỷ lệ giữa các khoản chi phí giao dịch tính trên giá trị của các khoản vay giá trị giao dịch trở nên cao hơn nhiều nếu đem so với các giao dịch quy mô lớn. Điều này tạo ra thách thức lớn cho các ngân hàng trong việc đa dạng hóa dịch vụ và xây dựng mức chi phí cạnh tranh cho các dịch vụ được cung cấp với các DNN&V trong lĩnh vực CN&XD.
+ Năng lực ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến của các NHTMCP: Bên cạnh việc trợ giúp các ngân hàng quản lý tốt hơn hoạt động của toàn bộ hệ thống, giúp đưa ra các giải pháp một cách nhanh chóng thì yếu tố quan trọng mà công nghệ ngân hàng mang đem lại là tiện ích và các dịch vụ mới với mức phí cạnh tranh, công nghệ thông tin cũng giúp ngân hàng nâng cao năng lực quản lý rủi ro đối với từng khách hàng và toàn bộ hệ thống.
Năng lực cho vay của các NHTMCP càng lớn, khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay này của các doanh nghiệp càng cao, từ đó góp phần giúp các DNN&V có thể thực hiện được các hoạt động kinh doanh đòi hỏi vốn của mình.
Tiêu chí đánh giá năng lực cho vay của các NHTMCP: Dư nợ cho vay của các ngân hàng (theo đối tượng), lượng vốn huy động của các NHTMCP…
2.2.2.3. Năng lực sử dụng vốn vay của DNN&V
Năng lực sử dụng vốn vay của DNN&V là khả năng sử dụng có hiệu quả về nguồn vốn vay của các DNN&V từ nguồn vốn vay của các ngân hàng thương mại cổ phần, nó biểu hiện cụ thể qua mục đích sử dụng vốn vay, năng lực sử dụng vốn…
Mục đích vay vốn của DNN&V: Mục đích vay vốn của DNN&V phản ánh những dự định, kế hoạch và phương án sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp với nguồn vốn vay từ ngân hàng. Mục đích vay của doanh nghiệp rõ ràng sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong quá trình thẩm định để cấp vốn cho doanh nghiệp, bên cạnh đó, mục đích vay vốn rõ ràng là một trong những cơ sở tạo lòng tin cho ngân hàng khi cấp vốn.
Năng lực sử dụng vốn vay của DNN&V: Thực tế cho thấy, có rất nhiều doanh nghiệp vay vốn sử dụng sai mục đích hoặc nguồn vốn vay sử dụng không hiệu quả, các khoản nợ xấu của ngân hàng có chiều hướng gia tăng khi các khoản vốn cho vay ngân hàng không thể thu hồi.
Thêm vào đó, một bộ phận cán bộ quản lý của doanh nghiệp xuất phát là những kỹ sư, thợ lành nghề tự mở ra các doanh nghiệp, khi đó, họ chưa có bất cứ kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cộng thêm việc, quy mô vốn của các DNN&V là khá thấp, việc sử dụng vốn không đúng mục đích vay có khả năng xảy ra khi các doanh nghiệp cần phải quay vòng vốn. Điều đó, vô hình chung gây ra những khó khăn cho DNN&V sau đó vay vốn vì các ngân hàng sẽ thắt chặt hơn quy trình vay của mình.
Các yếu tố khác về năng lực sử dụng vốn vay của DNN&V:
+ Khả năng quản lý nguồn vốn vay của các DNN&V: Các chủ doanh nghiệp thường là những kỹ sư hoặc kỹ thuật viên tự đứng ra thành lập và vận hành doanh nghiệp, họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Đôi khi, việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Phần lớn những người chủ doanh nghiệp đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào, thậm chí có người còn chưa qua một khóa đào tạo nào, mặc dù vậy, họ thường không quan tâm đến việc đào tạo để nâng cao năng lực quản lý.
+ Khả năng thực hiện dự án, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNN&V. Do hạn chế về nguồn vốn chủ sở hữu của DNN&V đồng thời khả năng tiếp cận nguồn vốn vay kém nên doanh nghi ệp nhỏ và vừa khó khăn trong việc ứng dụng máy móc, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy năng lực sản xuất kinh doanh của DNN&V rất nhỏ bé, khó phát triển thành thương hiệu lớn để xâm nhập ra thị trường thế giới.
+ Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNN&V thường là những doanh nghiệp mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động marketing rất hạn chế và họ chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các doanh nghiệp này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất khó khăn.
Các tiêu chí đánh giá: Doanh nghiệp có sử dụng đúng mục đích vay vốn hay không? Hiệu quả sử dụng vốn vay?...
2.3. Kinh nghiệm thực tiễn vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP đối với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD ở một số địa phương và bài học cho tỉnh Nghệ An
2.3.1. Kinh nghiệm thực tiễn của một số ngân hàng trên thế giới
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Đài Loan
Đài Loan là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong khu vực Châu Á cũng như trên thế giới, cũng như nhiều quốc gia khác, các DNN&V đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Đài Loan và được các ngân hàng của nước này hỗ trợ.
Các DNN&V của Đài Loan có 3 đặc điểm chính: Số lượng lớn, tăng trưởng nhanh và hướng tới sự đổi mới, theo thống kê của Bộ Nội vụ kinh tế Đài Loan, nước này có khoảng 98% số doanh nghiệp là các DNN&V, các doanh nghiệp này có thế mạnh về xuất khẩu, bên cạnh đó, không ít các doanh nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ để trở thành các doanh nghiệp toàn cầu. Sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ đã thúc đẩy rất nhiều doanh nghiệp của Đài Loan mở rộng đầu tư cho các lĩnh vực, kết quả là các DNN&V của Đài Loan đã tạo được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp của các quốc gia lớn khác như Nhật Bản, Hàn Quốc bằng các sản phẩm chất lượng cao với mức giá hợp lý và thu hút nguồn vốn đầu tư lớn từ các đối tác trên toàn thế giới.
Để có những kết quả như vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đài Loan đã nhận được sự hỗ trợ của chính phủ, của các ngân hàng về vốn vay cũng như các chính sách khác, cụ thể như sau:
Giảm lãi suất chiết khấu: Giảm lãi suất chiết khấu giúp giảm chi phí vốn vay của doanh nghiệp và cá nhân, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khuyến khích các ngân hàng thương mại nhanh chóng giảm lãi suất của họ, khi các ngân hàng thương mại giảm lãi suất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay với chi phí cho vay thấp, chi phí vay thấp góp phần giảm chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kích thích các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất kinh doanh và cải tiến công nghệ,… Từ đó góp phần phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa cả về số lượng và chất lượng
Ngân hàng TW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTW sẽ giúp các ngân hàng thương mại mở rộng quy mô vốn vay, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng sẽ dễ dàng hơn để tiếp cận các khoản vốn vay này, từ đó các doanh nghiệp này cũng có cơ hội tiếp cận với các cơ hội kinh doanh mới…
Ngoài ra, Ngân hàng TW và chính phủ Đài Loan đã có những chính sách đặc biệt hỗ trợ các DNN&V - những động lực phát triển kinh tế chính của Đài Loan. Chính phủ đã chỉ đạo các ngân hàng nội địa khuyến khích cho vay đối với các DNN&V và hỗ trợ các doanh nghiệp đàm phán với các ngân hàng thương mại để vay vốn bổ sung vốn lưu động… Việc bổ sung vốn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và phát triển của các doanh nghiệp này, bởi vì, với các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhu cầu cần thiết và quan trong nhất với họ là dòng vốn, có vốn đầu tư các doanh nghiệp có thể thực hiện các công việc từ cải tiến công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao, mở rộng tìm kiếm thị trường và đối tác mới…
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Để hỗ trợ cho các DNN&V Hàn Quốc trong bối cảnh suy thoái kinh tế, đồng thời nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, chính phủ Hàn Quốc đã thành lập Ngân hàng công nghiệp Hàn Quốc nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các DNN&V, hệ thống ngân hàng này đã góp phần quan trọng vào sự gia tăng các khoản tín dụng cho vay cho các doanh nghiệp này
Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc cũng đã xây dựng hệ thống bảo lãnh tín dụng cho các DNN&V nhằm thúc đẩy tín dụng cho việc thành lập, mở rộng và tăng trưởng của các doanh nghiệp này. Hệ thống bảo lãnh tín dụng của Hàn Quốc được chia theo các kênh chính gồm: Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc, Quỹ bảo lãnh tín dụng công nghệ Hàn Quốc, Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương. Các quỹ này cung cấp bảo lãnh đối với rủi ro của các khoản vay của DNN&V, từ đó hỗ trợ những doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện vay như vốn tài sản đảm bảo có thể tiếp cận các khoản tín dụng của các ngân hàng
Bên cạnh đó, chính phủ Hàn Quốc còn thực hiện các chính sách hỗ trợ các DNN&V bên cạnh những hỗ trợ về tài chính như định hướng lĩnh vực ưu tiên phát triển với các DNN&V, tập trung nguồn lực nhằm hỗ trợ những doanh nghiệp này trong từng giai đoạn tăng trưởng như đơn giản hóa thủ tục thành lập, hỗ trợ khởi nghiệp, giảm thuế…
Việc hỗ trợ của chính phủ cũng như của các ngân hàng thương mại ở Hàn Quốc đã góp phần giúp các doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn vay, có vốn vay các doanh nghiệp sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó phát triển chính bản thân các doanh nghiệp.
2.3.2. Kinh nghiệm thực tiễn của một số NHTMCP ở Việt Nam
2.3.2.1. Thực tiễn vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD tại Thành phố Hồ Chí Minh
DNN&V nói chung và các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nói riêng đã phần nào thể hiện rõ vai trò của mình với sự phát triển chung của kinh tế trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Tính đến hết năm 2016, số lượng các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố khoảng 287.000 doanh nghiệp chiếm khoảng 97,5 phần trăm tổng số các doanh nghiệp hiện nay đang hoạt động (Nguồn số liệu: Sở kế hoạch và đầu tư Thành Phố Hồ Chí Minh). Bình quân hàng năm, các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GDP, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 30% tổng thu ngân sách, khoảng 33% giá trị sản lượng công nghiệp và giải quyết khoảng hơn 60% lao động trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh, một phần lớn trong những đóng góp đó là sự đóng góp của các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. (Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư Thành Phố Hồ Chí Minh).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy phần lớn các DNN&V nói chung, DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng nói riêng còn khó khăn về tài chính, công nghệ hạn chế, thiếu các thông tin về thị trường…, các doanh nghiệp này thiếu vốn sản xuất kinh doanh, vốn sản xuất kinh doanh của các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chủ yếu là vốn tự có. Tín dụng cho các DNN&V này tăng rất chậm, chỉ có khoảng 30% tổng số các doanh nghiệp này có thể tiếp cận được nguồn vốn vay từ các ngân hàng, các doanh nghiệp này có khoảng 80% doanh nghiệp là có vốn điều lệ là dưới 7 tỷ đồng, khoảng 90% tổng số các doanh nghiệp là phải đi vay vốn của các ngân hàng, việc tự huy động vốn để đầu tư phát triển sản xuất rất khó khăn. Nguyên nhân các doanh nghiệp khó tiếp cận với dòng vốn vay của các ngân hàng là do hầu hết các doanh nghiệp này không đủ điều kiên vay ngân hàng hay tiếp cận các tổ chức quốc tế, chính vì vậy, việc huy động vốn càng khó khăn vá các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường vốn cũng gặp khó khăn (Nguồn: Hiệp hội DNN&V TP Hồ Chí Minh).
Để tiếp sức cho các doanh nghiệp này, thời gian qua Thành Phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thoát khỏi tình trạng khó khăn. Một trong những biện pháp được chính quyền địa phương thực hiện đó là tổ chức các buổi đối thoại giữa chính quyền và doanh nghiệp nhằm nắm bắt những khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp đang gặp phải để có thể có những đóng góp và định hướng cho doanh nghiệp, tổ chức các cuộc họp kết nối giữa ngân hàng và doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn
vay với lãi suất thấp. Bên cạnh việc hỗ trợ của chính phủ chung cho các doanh nghiệp thông qua các công cụ hỗ trợ như: tạo hành lang pháp lý thống thoáng, hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực tài chính, công nghệ…
Bên cạnh những hỗ trợ chung của chính phủ và nhà nước, Thành Phố Hồ Chí Minh cũng đã có những biện pháp riêng nhằm hỗ trợ cho các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng nói riêng và các doanh nghiệp nghiệp nhỏ và vừa nói chung. Một số chương trình được Thành Phố thực hiện là chương trình hỗ trợ 50% lãi vay cho các dự án sản xuất sản phẩm cơ khí chính xác, máy móc thiết bị kiểm tra an toàn trong quá trình sản xuất công nghiệp… Thời gian hỗ trợ lãi vay của các dự án không quá 7 năm. Tính đến hết năm 2015 có 85/114 dự án được triển khai với tổng vốn đầu tư khoảng 6.800 tỷ đồng. (Nguồn: Hiệp hội DNN&V TP Hồ Chí Minh).
Thêm vào đó, một kênh hỗ trợ mà Thành Phố Hồ Chí Minh đã thực hiện khá tốt nhằm hỗ trợ cho các DNN&V là các quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Hiện có khoảng 4.500 doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố có thể tiếp cận được ngân hàng với nguồn vốn vay hợp lý, trong đó lãi suất vay trung và dài hạn ở mức khoảng 8,5-9,5%/năm, ngắn han từ 6,6-6,8%/năm. Trong khoảng ba năm qua, đã có khoảng hơn
67.500 tỷ đồng đã được các ngân hàng thương mại cổ phần cho các DNN&V vay trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Hiệp hội DNN&V TP Hồ Chí Minh).
Chính nhờ những hỗ trợ từ phía các ngân hàng với kênh hỗ trợ về vốn vay cũng như những hỗ trợ của chính quyền địa phương, của nhà nước, các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh đã có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp cũng đã thoát khỏi những khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế chung của thế giới và hứa hẹn sẽ có bước phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
2.3.2.2. Thực tiễn vai trò hoạt động cho vay của NHTMCP với việc phát triển của DNN&V trong lĩnh vực CN&XD tại tỉnh Quảng Bình
Tính đến hết năm 2016, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có khoảng 7.526 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ chiếm 53,9%; lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,2%; và các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản chiếm 5,9%. Phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng là các DNN&V (Nguồn số liệu: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình) và được phân bố chủ yếu tại thành phố Đồng Hới với khoảng 3.574 doanh nghiệp đang hoạt động trong tổng số các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp đã từng bước tháo gỡ khó khăn và đã có dấu hiệu tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao. Một số sản phẩm tăng khá như: sản xuất bia, đá xây dựng, xi măng, Quặng Titan; các hợp chất từ cao su... Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng trong thời gian qua chịu ảnh hưởng khá lớn do thị trường xây dựng thu hẹp, nhiều công trình bị giãn, hoãn tiến độ; việc huy động vốn khó khăn nên đã tác động không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp cũng như đời sống, việc làm thu nhập của người lao động. Các doanh nghiệp đã từng bước đổi mới công nghệ, trang thiết bị tiên tiến trong quá trình sản xuất, tăng cường áp dụng cải tiến kỹ thuật và quản lý tốt để hạ giá thành sản phẩm. Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh tế. Chú trọng đầu tư gắn với bảo vệ môi trường và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động trong doanh nghiệp. Đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, đổi mới mẫu mã nên sản phẩm làm ra được thị trường đón nhận, doanh thu sản xuất cao hơn năm trước. (Nguồn số liệu: Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình phải đối mặt với rất nhiều các khó khăn: Nguồn vốn chủ sở hữu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị này là rất thấp, do đó nguồn vốn để các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu phụ thuộc vào vốn vay, một trong những nguồn vốn vay các doanh nghiệp thường sử dụng là vốn vay từ các ngân hàng thương mại cổ phần, trong khi lãi suất của các ngân hàng mặc dù đã điều chỉnh giảm nhưng việc xử lý nợ xấu kéo dài dẫn đến việc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn hết sức khó khăn, và một số trường hợp các doanh nghiệp không thể tiếp cận nguồn vốn vay để tiếp tục sản xuất.
Bên cạnh đó, mặc dù lãi suất cho vay giảm nhưng lãi suất này chỉ áp dụng với các khoản vay mới, các khoản vay cũ vẫn áp dụng theo lãi suất cũ nên các doanh nghiệp này vẫn gặp không ít khó khăn.
Mục đích sử dụng vốn vay của các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chưa hợp lý, các doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo nên việc tiếp cận vốn vay của các doanh nghiệp này từ các ngân hàng càng trở nên khó khăn. Rất nhiều các dự án của các doanh nghiệp này phải dừng lại do thiếu vốn.
Nhằm hỗ trợ các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng từng bước thoát khỏi những khó khăn, bên cạnh những hỗ trợ của chính phủ, của nhà nước, tỉnh Quảng Bình đã áp dụng một số biện pháp nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho các DNN&V trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng nói riêng và các doanh nghiệp dân