Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 15


điều hành thực thi CNH, HĐH. Đáng chú ý là mặc dù thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường và tự do hoá thương mại từng bước nhưng không vì thế mà vai trò của nhà nước bị giảm sút mà ngược lại nó ngày càng trở nên quan trọng. Điều này thể hiện rõ nhất ở các chính sách nhằm thay đổi, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế, đặc biệt trong việc xây dựng, thúc đẩy và hỗ trợ các ngành công nghiệp mới phát triển.

Mục tiêu xuyên suốt là phát triển các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu nhưng trong một số giai đoạn cụ thể, nhà nước Đài Loan vẫn sử dụng kết hợp các loại chính sách mang tính đặc trưng của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Để hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mới, một mặt nhà nước Đài Loan đã trực tiếp đầu tư xây dựng phát triển sau đó chuyển lại toàn bộ cho các nhà đầu tư tư nhân quản lý và kinh doanh, mặt khác, nhà nước kết hợp sử dụng hàng loạt các công cụ chính sách như bảo hộ có lựa chọn, các hình thức trợ cấp, hạn chế cạnh tranh như khuyến khích hợp nhất, kiểm soát năng lực sản xuất, hạn chế đầu tư trong một số ngành nhất định và trong thời gian nhất định, kiểm soát nhập khẩu và chuyển giao công nghệ trong các ngành mới phát triển. Những chính sách và giải pháp này đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp này cơ hội tự xây dựng, phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh trước khi thực hiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ cao hơn. Nói cách khác, chính phủ Đài Loan vừa thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu song song với chính sách khuyến khích xuất khẩu; chính sách tài chính, thương mại vừa mang tính hướng nội, vừa mang tính hướng ngoại nhưng áp dụng với từng lĩnh vực khác nhau. Điều quan trọng nhất là mức độ bảo hộ không quá lớn mà dựa trên sự lựa chọn các ngành công nghiệp non trẻ và tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Dựa trên định hướng mang tính chất nền tảng đó, chính phủ Đài Loan đã ban hành một hệ thống các chính sách đồng bộ nhằm huy động tổng hợp các nguồn lực về vốn, công nghệ, nhân lực cho CNH, HĐH. Xét về cơ bản, các chính sách được ban hành vẫn đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và nhất


quán của loại chính sách nền tảng là khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu. Nhờ đó, nhà nước Đài Loan đã tác động thúc đẩy phân bố các nguồn lực phù hợp với lợi thế so sánh của Đài Loan và đã đem lại thành công cho CNH, HĐH.

2.3. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐÀI LOAN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Từ việc nghiên cứu về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo sau:

2.3.1. Nhà nước cần chủ động nắm bắt thời cơ và lựa chọn thời điểm thích hợp điều chỉnh chiến lược CNH, HĐH

Thực tế cho thấy, việc Đài Loan lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu trong giai đoạn đầu là cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể khi các nguồn lực cơ bản cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Tuy nhiên, khi chiến lược này bắt đầu bộc lộ những hạn chế, không tận dụng được những lợi thế của phân công lao động quốc tế và trong bối cảnh môi trường kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cho phát triển thì Đài Loan đã nhanh chóng chớp thời cơ để chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Việc chuyển đổi sang chiến lược mới một phần do hoàn cảnh buộc phải mở cửa ra bên ngoài nhưng mặt khác nó cũng cho thấy những ý muốn chủ quan của Đài Loan, tranh thủ chớp thời cơ để thâm nhập thị trường thế giới.

Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu rất coi trọng hướng ra các thị trường bên ngoài rộng lớn, có nhiều tiềm năng. Mặc dù mục tiêu của Đài Loan là phát triển các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu nhưng Đài Loan vẫn luôn có sự đánh giá về thực trạng phát triển của mình, dự báo những điều kiện mới, những xu hướng vận động mới để nhanh chóng điều chỉnh nội dung chiến lược công nghiệp hoá. Do vậy, trong suốt tiến trình CNH, HĐH, các ngành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.


công nghiệp thay thế nhập khẩu vẫn không bị loại bỏ, mà trong một số giai đoạn được chú trọng phát triển, thậm chí cả trong giai đoạn công nghiệp hoá gắn với kỹ thuật cao thì các ngành này vẫn giữ những vị trí nhất định trong cơ cấu công nghiệp. Với định hướng đó, Đài Loan không chỉ tập trung hướng vào xuất khẩu mà luôn kết hợp khai thác nhu cầu của thị trường trong nước để phát triển những ngành công nghiệp truyền thống và công nghiệp non trẻ.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 15

Đặc biệt, khi quá trình toàn cầu hoá kinh tế được đẩy mạnh từ đầu những năm 1980, các nước thực hiện chính sách hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực thì Đài Loan đã có bước điều chỉnh chiến lược quan trọng. Đài Loan đã xác định rõ những yêu cầu điều chỉnh về chính sách, luật pháp và những yêu cầu cần thiết đối với các doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt. Sự điều chỉnh chiến lược đó cho phép Đài Loan có thể chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trong quá trình đàm phán gia nhập những liên kết kinh tế quốc tế và khu vực. Điều đó không những đã giúp nền kinh tế Đài Loan hạn chế được những tác động tiêu cực lớn do quá trình hội nhập kinh tế mà còn giúp Đài Loan tìm được chỗ đứng khá chắc chắn trong chuỗi giá trị hàng hoá toàn cầu. Điều mà đối với nhiều nước đang phát triển hiện vẫn đang là mục tiêu hướng tới.

Nhìn chung, nội dung chiến lược CNH, HĐH của Đài Loan được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng giai đoạn, ở đó luôn có sự kế thừa và bổ sung, từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu, kết hợp giữa ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu với việc duy trì và phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và vươn tới các ngành công nghiệp kỹ thuật cao. Sự linh hoạt, năng động trong CNH, HĐH còn thể hiện trong việc xác lập cơ cấu ngành nghề cùng những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu luôn được điều chỉnh cho phù hợp. Sự điều chỉnh đó vừa phát huy ở mức cao nhất lợi thế bên trong, vừa nắm bắt kịp thời những cơ hội từ bên ngoài để hướng tới mục tiêu xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và nâng cao chất lượng tăng trưởng.


Như vậy, điều chỉnh nội dung chiến lược CNH, HĐH cũng chính là xác định bước đi đối với sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đến công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu; từ mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước đến mục tiêu mở rộng, chiếm lĩnh thị trường nước ngoài; từ công nghệ sử dụng nhiều lao động đến sử dụng công nghệ đòi hỏi vốn lớn và kỹ thuật cao; từ mục tiêu chen chân vào chuỗi giá trị toàn cầu từ những khâu có giá trị gia tăng thấp đến sự khẳng định chỗ đứng mới, khâu có thể tạo giá trị gia tăng lớn nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu.

2.3.2. Nhà nước cần thực hiện vai trò gắn kết quá trình CNH, HĐH với phát triển kinh tế thị trường

Lịch sử phát triển của nhiều nước cho thấy, việc hiện đại hoá nền kinh tế của một nước theo đuổi chiến lược phát triển hướng ngoại không phải chỉ do yếu tố bên ngoài quyết định mà nó là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong đóng vai trò quyết định. Bởi những cơ hội từ bên ngoài chỉ có thể mang lại hiệu quả thực sự nếu bên trong biết nắm bắt và có khả năng tận dụng những cơ hội đó. Điều đó cũng có nghĩa là cần phải thiết lập được một cơ chế vận hành nền kinh tế phù hợp và hiệu quả. Đài Loan là một điển hình thành công trong việc tận dụng những thời cơ có lợi từ bên ngoài, tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện CNH, HĐH.

Bước vào công nghiệp hoá khi nền kinh tế thị trường còn ở trình độ thấp, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, chưa đủ khả năng phát huy tác dụng trong phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả nên nhà nước Đài Loan đã áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh, nhiều khi mang tính chất cưỡng chế để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra. Sự can thiệp đó thể hiện ở chỗ: i) Chính phủ làm thay một phần chức năng của cơ chế thị trường trong việc phân bổ sử dụng tài nguyên ở tầm vĩ mô; ii) Nhà nước xúc tiến việc tạo ra thị trường và dùng sức mạnh chính quyền để nuôi dưỡng thị trường; iii)


Ngăn ngừa và uốn nắn khuynh hướng cạnh tranh không đủ hoặc cạnh tranh quá mức trong vận hành thị trường. Thực tế cho thấy, sự can thiệp mạnh của chính phủ lúc này là cần thiết để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, tạo sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế - xã hội. Sự can thiệp của nhà nước ở đây là để phục vụ cho thị trường chứ không phải là thay thế thị trường.

Theo đà phát triển của nền kinh tế, Đài Loan đã thực hiện giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước, tạo điều kiện cho thị trường phát triển và làm cho thị trường thực hiện chức năng của mình một cách tốt nhất. Hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện như thúc đẩy tự do hoá kinh tế, xác định vai trò pháp lý của các chủ thể tham gia thị trường, điều chỉnh chính sách tỷ giá, cải cách hệ thống chính sách tài chính, tiền tệ, tạo lập và phát triển các loại thị trường... Những biện pháp này đều nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường phát huy vai trò thực sự của mình trong việc huy động và phân bổ sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả.

Từ kinh nghiệm của Đài Loan cho thấy, nhà nước ở các nước đang phát triển tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế cần phải thiết lập một cơ chế vận hành nền kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của mình và có hiệu quả là khâu then chốt. Nghĩa là phải căn cứ vào điều kiện cụ thể, căn cứ vào mục tiêu phát triển để tạo lập một cơ chế vận hành hữu hiệu và tuỳ theo sự biến động của môi trường kinh tế - xã hội bên trong cũng như bên ngoài tiến hành điều chỉnh, đổi mới để thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế. Đặc biệt là phải biết gắn kết quá trình CNH, HĐH với phát triển kinh tế thị trường bởi đó thực chất là lựa chọn cách thức tiến hành CNH, HĐH dựa trên quan điểm phát huy tốt nhất những mặt tích cực của cơ chế thị trường và giảm thiểu những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nguyên tắc cơ bản của việc lựa chọn cơ chế vận hành của nền kinh tế là phải lấy cơ chế thị trường làm cơ sở và thực hiện tốt việc nhà nước điều tiết thị trường. Sự kết hợp giữa nhà nước và thị trường đều trên cơ sở thúc đẩy sự phát triển thị trường và phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường.


2.3.3. Nhà nước cần có chính sách đa dạng hóa các nguồn vốn, mở rộng các công cụ huy động vốn cho CNH, HĐH

Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho CNH, HĐH, nhà nước Đài Loan đã luôn tìm cách để gia tăng nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư phát triển. Sớm ý thức được vai trò của ngoại thương đối với việc tăng khả năng tích luỹ nên nhà nước Đài Loan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu. Hàng loạt chính sách của nhà nước như khuyến khích tiết kiệm, phát triển hệ thống tài chính,... đã tạo điều kiện cho Đài Loan nâng cao tỷ lệ tích luỹ vốn và tạo điều kiện gia tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng và chính việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao lại tạo điều kiện gia tăng tích luỹ nội địa.

Ngoài ra, Đài Loan còn chú trọng tiếp cận các nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài. Từ kinh nghiệm thực tế của Đài Loan cho thấy:

- Để có môi trường đầu tư tốt, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, điều trước tiên phải tạo sự ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội. Trong đó, quan trọng nhất là ổn định về tài chính, tiền tệ mà nhiệm vụ hàng đầu là phải kiểm soát được lạm phát, giảm thiểu những tiêu cực dễ ảnh hưởng đến sự điều hành vĩ mô.

- Chú trọng tạo dựng một cơ sở hạ tầng vững chắc cũng là một yếu tố quan trọng hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Việc thành lập các khu chế xuất của Đài Loan là một điển hình thành công trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đang phát triển trong thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế, các khu chế xuất, khu công nghệ cao là nơi hội tụ và tiếp nhận năng lực chất xám của các nhà khoa học trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ bổ sung và thúc đẩy đổi mới công nghệ, là nơi có sức hấp dẫn lớn đối với TNCs nước ngoài vì ở đó có chế độ ưu đãi lớn về giá đất, cơ sở hạ tầng, dịch vụ và thuế.

- Tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi mà đặc biệt là hệ thống pháp luật chặt chẽ phù hợp với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Bài học kinh nghiệm của Đài Loan là để tạo lập môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn


cần phải tiến hành tự do hoá tài chính, tự do hoá đầu tư, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường tài chính - tiền tệ - ngân hàng - chứng khoán. Hiện nay, Đài Loan được xếp trong hàng ngũ 10 nền kinh tế tự do nhất thế giới.

Điểm đáng chú ý nữa là Đài Loan đã giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa vốn trong nước và vốn ngoài nước. Khi huy động vốn cho CNH, HĐH, Đài Loan đã chú trọng khai thác và huy động tối đa nguồn vốn nội địa. Nó vừa giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, vừa tạo điều kiện chủ động thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đó là những vấn đề mà các nước đang phát triển tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế phải quan tâm chú ý.

2.3.4. Nhà nước phải thực sự coi khoa học - công nghệ là động lực cho sự phát triển và có các chính sách khuyến khích phát triển khoa học - công nghệ, đặc biệt là các ngành công nghệ cao

Bước vào công nghiệp hóa với nền kinh tế ở điểm xuất phát thấp nhưng chỉ sau hơn 30 năm, Đài Loan đã gia nhập hàng ngũ NIEs. Thực tế cho thấy, khoa học - công nghệ đã tạo ra sự phát triển đột phá, đưa nền kinh tế Đài Loan tiến lên hiện đại. Đặc biệt, từ những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, Đài Loan đã có bước phát triển nhảy vọt, trở thành cường quốc đứng hàng đầu thế giới về sản xuất chíp điện tử, vi mạch và máy vi tính xách tay... Những kết quả là do chính phủ Đài Loan đã sớm có chiến lược phát triển công nghệ cao và nhất quán, khuyến khích phát triển công nghệ được xác định là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng, Đài Loan đã tranh thủ lợi dụng kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật của các công ty xuyên quốc gia, biết “đứng trên vai của những người khổng lồ” này để chen chân vào thị trường công nghệ cao theo hướng đi phù hợp của mình.

Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, Đài Loan đã lựa chọn chính sách thu hút và tiếp nhận công nghệ tiên tiến của nước ngoài gắn với các hình thức chuyển giao công nghệ khác nhau như nhập khẩu thiết bị, tiếp nhận công nghệ


mới qua FDI, mua bản quyền… Việc hấp thụ công nghệ nước ngoài ở Đài Loan được tiến hành theo nhiều bước, từ thuần tuý bắt chước đến làm chủ công nghệ như chính nước xuất khẩu công nghệ và tiếp theo là đầu tư nghiên cứu nâng cấp công nghệ nhập khẩu để nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc chính phủ cho phép nhập khẩu với khối lượng lớn các thiết bị của nước ngoài đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Đài Loan nhảy vào những ngành công nghiệp mới và hiện đại. Đáng chú ý là nhà nước Đài Loan thực hiện quản lý khá chặt chẽ công nghệ nhập khẩu, có chính sách ưu đãi hay không ưu đãi đối với từng loại công nghệ. Để thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhằm hình thành các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, Đài Loan đã chú trọng xây dựng và phát triển các khu chế xuất với những điều kiện ưu đãi nhằm thu hút FDI, chủ yếu là của Mỹ, Nhật Bản... Đặc biệt, chính phủ Đài Loan có chính sách khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển công nghệ. Thực tế, việc khuyến khích TNCs thiết lập các cơ sở R&D ở Đài Loan cùng những ưu đãi đối với các doanh nghiệp FDI cũng tạo sức ép đối với các doanh nghiệp nội địa buộc phải nâng cao trình độ công nghệ để gia tăng khả năng cạnh tranh.

Việc điều chỉnh mục tiêu chính sách công nghệ của Đài Loan từ nhập khẩu công nghệ là chính sang tập trung đầu tư nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ mới đã tạo khả năng nắm bắt cơ hội để phát triển nền kinh tế tri thức. Khi mô hình sản xuất quy mô lớn hiện có ở Đài Loan mất dần lợi thế cạnh tranh thì chính phủ Đài Loan đã đưa ra kế hoạch và các chương trình nghiên cứu đặc biệt phát triển các công nghệ cho các ngành chủ chốt như công nghệ sinh học, công nghệ nano, thiết kế hệ thống tích hợp và thông tin liên lạc... nhằm mục tiêu đưa Đài Loan thành một trung tâm của châu Á về R&D.

Từ thành công của Đài Loan trong chính sách phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

- Thứ nhất, nhà nước cần phải có chiến lược phát triển công nghệ với những bước đi cụ thể cùng những giải pháp phù hợp. Trong đó phải bao hàm

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí