Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 13


Hình 2 4 Đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan 1995 2006 Nguồn Investment 1


Hình: 2.4: Đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan (1995 - 2006)

Nguồn: Investment Commission, Ministry of Economic Affairs, R.O.C., Statistics on Overseas Chinese & Foreign Investment.

Trong giai đoạn 1990 - 2006, bình quân một năm các doanh nghiệp Đài Loan đầu tư ra nước ngoài hơn 2,7 tỷ USD. Riêng năm 2000, đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan tăng vọt với 1.391 vụ, giá trị trên 5 tỷ USD. Các lĩnh vực đầu tư được các doanh nghiệp Đài Loan chú trọng là: tài chính, bảo hiểm, thương mại, các ngành chế tạo máy tính, sản phẩm điện tử, quang học, sản xuất linh kiện điện tử, dệt, sản xuất phương tiện vận tải... Thị trường đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp Đài Loan là Mỹ, Philippin, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia và gần đây là thị trường Trung Quốc.

c. Chính sách phát triển khoa học - công nghệ

Trong bối cảnh mới, chính phủ Đài Loan đã điều chỉnh mục tiêu phát triển công nghệ từ nhập khẩu là chính sang tập trung đầu tư nghiên cứu ứng dụng và triển khai công nghệ mới, khai thác triệt để thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới hướng đến phát triển nền kinh tế tri thức. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu cơ bản để phát triển “những kỹ thuật, công nghệ của tương lai”, Đài Loan chú ý đến những công nghệ phù hợp đáp ứng được nhu cầu trên thị


trường công nghệ thế giới. Đây chính là bước chuyển quan trọng tiến lên một trình độ công nghệ cao hơn.

Trong Kế hoạch kiến thiết kinh tế sáu năm (1991 - 1996), chính phủ Đài Loan chủ trương tập trung phát triển 8 hạng mục kỹ thuật cao nhằm tạo nguồn động lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp mới và hiện đại hoá các ngành công nghiệp truyền thống. Đó là: Kỹ thuật quang điện; Kỹ thuật linh kiện phần mềm (máy vi tính); Kỹ thuật tự động hóa công nghiệp; Kỹ thuật vật liệu ứng dụng; Kỹ thuật kiểm tra cao cấp; Kỹ thuật sinh học; Kỹ thuật khai thác tài nguyên; Kỹ thuật tiết kiệm nguồn năng lượng [63, tr. 120].

Sau khi gia nhập WTO, để hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực cạnh tranh và phù hợp với những cam kết gia nhập WTO, trong kế hoạch 6 năm “Thách thức 2008” (2002-2008), chính phủ Đài Loan đã đề ra kế hoạch phát triển khoa học công nghệ quốc gia với mục tiêu là tăng chi tiêu cho R&D lên 3% GDP1, gia tăng số lượng sản phẩm và công nghệ đạt tiêu chuẩn cao nhất của quốc tế, đưa Đài Loan thành một trung tâm lớn ở châu Á về nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ.

Nhìn chung, tỷ lệ chi tiêu cho R&D ở Đài Loan trong GDP liên tục tăng lên. Mặc dù nguồn tài trợ từ khu vực chính phủ cho R&D giảm dần nhưng vẫn chiếm khoảng 40% trong tổng đầu tư cho R&D (xem bảng 2.1).

Thực tế, nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu của Đài Loan và của nước ngoài thành lập các trung tâm nghiên cứu tại Đài Loan và có các chính sách đãi ngộ đối với hoạt động phát triển khoa học - công nghệ. Đầu thập kỷ 1980, chính phủ Đài Loan đã thành lập Viện khoa học kỹ thuật công nghiệp với nhiệm vụ: tiếp nhận nhân tài kỹ thuật và tích luỹ kỹ thuật; thiết lập các cơ sở công nghiệp kỹ thuật cao và tạo những bước “đột phá” để sản xuất các sản phẩm có thể cạnh tranh với sản phẩm công nghệ cao của các


1 http://www.gio.gov.tw/taiwan-website/4-oa/20020521/2002052101.html


nước phát triển trên thị trường thế giới. Chính phủ còn thuê các chuyên gia nước ngoài về R&D thông qua các cơ chế khuyến khích như tạo môi trường làm việc tốt hơn và các đãi ngộ khác.

Bảng 2.1: Chi tiêu cho R&D của Đài Loan



Năm

Tỷ lệ giữa chi tiêu của chính phủ và của khu

vực tư nhân cho R&D

Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP

(%)

Tỷ lệ chi tiêu cho R&D của công nghiệp so với

doanh thu (%)

1993

49,0: 51,0

1,75

1,05

1994

47,4: 52,6

1,77

1,04

1995

43,7: 56,3

1,78

1,02

1996

41,6: 58,4

1,80

1,07

1997

40,2: 59,8

1,88

1,12

1998

38,3: 61,7

1,97

1,24

1999

37,9: 62,1

2,05

1,23

2000

37,5: 62,5

2,05

1,10

2001

37,0: 63,0

2,16

1,21

2002

38,1: 61,9

2,30

1,17

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Nguồn: Council for Economic Planning and Development, R.O.C: Taiwan Statistical Data Book, 2004, p. 123.

Việc xây dựng công viên khoa học và công nghệ Tân Trúc là một giải pháp quan trọng thúc đẩy R&D và hỗ trợ cho sự hình thành, phát triển của các ngành công nghệ cao. Chính quyền tuyển chọn rất khắt khe đối với các doanh nghiệp muốn hoạt động trong công viên này: Không cho phép những xí nghiệp chỉ hoạt động mang tính gia công đơn thuần; Những xí nghiệp có vốn nước ngoài phải đảm bảo có khả năng thiết kế các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, có thiết bị thí nghiệm tương đối tốt, có thể tiến hành nghiên cứu khoa học kỹ thuật cao và thiết lập các cơ sở nghiên cứu, có thể thu hút và đào tạo các nhà


khoa học - kỹ thuật cao cấp, có các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao vừa được khai thác, hoặc có sức cạnh tranh...

Trong thập kỷ 1990, Đài Loan tiến hành xây dựng trung tâm viễn thông quốc tế cao cấp, trung tâm máy tính cao cấp, phòng thực nghiệm linh kiện vi mạch, trung tâm bức xạ đồng bộ nhằm biến Tân Trúc thành trung tâm đối ngoại giao lưu khoa học kỹ thuật quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều chương trình nghiên cứu đặc biệt nhằm phát triển các công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ nano, thiết kế hệ thống tích hợp và thông tin liên lạc... đã được tiến hành. Chính

phủ đã tiến hành cho vay 50 nghìn tỷ NT$ (1,44 tỷ USD) với lãi suất thấp để phục vụ cho các hoạt động R&D2. Nhiều dự án đang triển khai như Trung tâm nghiên cứu gen tại Viện nghiên cứu Academia Sinica, Trung tâm thiết kế phần mềm tại công viên phần mềm Nankang, Trung tâm về kỹ thuật thông tin di động tại Viện nghiên cứu khoa học và công nghệ Chung-shan, Trung tâm nghiên cứu về ứng dụng công nghệ nano tại Viện nghiên cứu kĩ thuật công nghiệp Tân Trúc.

Đồng thời, chính phủ Đài Loan còn chủ trương phát triển mạnh công nghệ thông tin nhằm mục tiêu phát triển một Đài Loan số hoá, phát huy lợi thế của công nghệ thông tin và viễn thông để xây dựng chính phủ điện tử, tăng khả năng cạnh tranh của các ngành, cải thiện chất lượng các dịch vụ và tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa.

Với những chính sách tích cực của nhà nước, nền khoa học - công nghệ Đài Loan đã có bước phát triển đột phá. Các tiêu chí về số cán bộ nghiên cứu; tỷ lệ cán bộ nghiên cứu trên 10.000 lao động; số lượng bằng sáng chế được cấp; giá trị công nghệ mua bán; tỷ lệ chi tiêu cho R&D liên tục tăng lên (Bảng 2.2). Nhờ đó, năng lực công nghệ trong các ngành sản xuất của Đài Loan ngày càng được nâng cao. Nhóm ngành chế tạo linh kiện điện tử, các sản phẩm bán dẫn đã vươn lên vị trí hàng đầu về thị phần trên thị trường thế giới.


2 http://www.gio.gov.tw/taiwan-website/4-oa/20020521/2002052101.html


Bảng 2.2: Chỉ số phát triển khoa học công nghệ Đài Loan (1997 – 2002)



Đơn vị

1997

1999

2001

2002

Số cán bộ nghiên cứu (CBNC)

người

76.588

87.454

89.118

95.421

Tỷ lệ CBNC/10000 dân

người

35,3

39,7

39,9

42,5

Tỷ lệ CBNC/10000 lao động

người

81,2

90,4

90,7

95,7

Tỷ lệ chi tiêu cho R&D

% GDP

1,88

2,05

2,16

2,30

Bằng sáng chế được cấp

Cái

29.356

29.144

53.789

45.022

Trong đó của người Đài Loan


19.551

18.052

32.310

24.846

Giá trị công nghệ mua bán

Tr NT$

34.010

40.228

-

56.507

Nguồn: National Science Council, R.O.C., Indicators of Science and Technology, Republic of China, 2003; Ministry of Economics Affairs, R.O.C., Industrial Statistical Survey Report 2002, Taiwan Statistical Data Book 2004.

d. Chính sách phát triển nguồn nhân lực

Trước yêu cầu nâng cấp nền kinh tế, chính phủ Đài Loan rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với những chính sách cụ thể:

- Hoàn thiện hệ thống luật pháp về giáo dục. Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như: “Luật giáo dục mẫu giáo”, “Cương lĩnh thực thi giáo dục quốc dân”, “Luật đại học”, “Luật về trường chuyên khoa”…

- Thực hiện đa dạng hoá các hình thức giáo dục đào tạo và đảm bảo nguồn kinh phí cho phát triển giáo dục. Nguồn kinh phí này chủ yếu để phát triển các trường công và một phần khuyến khích giúp đỡ phát triển các trường tư. Theo quy định của Đài Loan, tỷ lệ chi cho giáo dục trong ngân sách các cấp như sau: cấp trung ương không dưới 15%; cấp tỉnh không dưới 25% và cấp huyện, thị không thấp hơn 35% [41, tr. 147].


- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài cho nền kinh tế tri thức. Nhà nước Đài Loan chủ trương thiết lập một hệ thống học tập toàn diện lâu dài, khuyến khích các loại hình dịch vụ xã hội tự nguyện, kết hợp các nguồn lực học tập và thiết lập môi trường để quốc tế hoá việc học tập. Dự án đầu tiên của kế hoạch phát triển quốc gia 6 năm (2002 - 2008) là bồi dưỡng nhân tài cho thế hệ điện tử. Năng lực sử dụng thành thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, và sử dụng Internet rất được chú trọng.

- Bên cạnh chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, chính quyền Đài Loan rất chú trọng vấn đề hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực thể hiện ở chính sách coi trọng nhân tài, đặc biệt là đội ngũ kỹ sư, quản lý lành nghề có trình độ cao. Chính phủ Đài Loan chú trọng phát triển mạng lưới lưu học sinh ngành kỹ thuật ở các trường đại học hàng đầu thế giới, tập hợp đội ngũ các kỹ sư lành nghề tốt nghiệp ở các nước tư bản phát triển tham gia vào quá trình xây dựng và quản lý kinh tế. Đây chính là lực lượng lao động nòng cốt trong quá trình chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu vào Đài Loan. Ngoài ra, để nhằm khai thác nguồn chất xám từ bên ngoài, Đài Loan đã mời các chuyên gia nước ngoài làm việc với chế độ lương cao, trao quyền độc lập trong nghiên cứu và xây dựng các chương trình nghiên cứu riêng.

Thực tế, với chính sách khuyến khích và sự hỗ trợ từ chính quyền các cấp, hệ thống các trường dạy nghề và đại học của Đài Loan đã phát triển nhanh chóng, góp phần cung cấp nguồn lao động có kỹ thuật, kỹ năng chuyên ngành và một lượng lớn lực lượng các kỹ sư, các nhà khoa học, các nhà quản lý cho nền kinh tế. Cuối những năm 1980, hầu hết cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp có trình độ đại học. Năm 1992, tại công viên khoa học và công nghệ Tân Trúc có 47,6% tổng số lao động có trình độ đại học trở lên, trong đó có 198 tiến sỹ (chiếm 0,79%), 1849 thạc sỹ (7,34%).


Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào thành công của công nghiệp hoá đưa Đài Loan gia nhập vào hàng ngũ NIEs và tạo điều kiện cho Đài Loan tiến vào kinh tế tri thức.

e. Tiếp tục đẩy mạnh tự do hoá và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế

Thực tế, chính sách thương mại quốc tế luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Đài Loan. Từ cuối những năm 1980, khi các doanh nghiệp của mình đã có chỗ đứng khá vững chắc trong cạnh tranh quốc tế, nhà nước Đài Loan đã thực hiện chính sách đẩy mạnh quá trình tự do hoá và chính thức chấp nhận tự do hoá thương mại vào tháng 7 năm 1994 nhằm chủ động tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế như APEC, OECD, GATT (sau này là WTO) và gắn chặt hơn nền kinh tế Đài Loan với nền kinh tế toàn cầu.

Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, Uỷ ban Thương mại quốc tế thuộc chính phủ Đài Loan (BOFT) đã bắt đầu triển khai hệ thống visa hàng hoá điện tử vào năm 1999; thực hiện đơn giản hoá các thủ tục hành chính; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hệ thống thương mại điện tử nhằm giảm tỷ lệ chi phí thương mại; thiết lập hệ thống “một cửa” trong hoạt động khai báo hải quan và thiết lập hệ thống thương mại trực tuyến được kết nối toàn cầu.

Để khai thác có hiệu quả những cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế, tháng 12/2001, BOFT đã thành lập những bộ phận công tác đặc biệt thực hiện nhiệm vụ đàm phán với các đối tác thương mại chủ yếu của Đài Loan là Mỹ, Nhật Bản, Niu Dilân, Xingapo để đi đến ký kết các văn bản ghi nhớ, các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và FTAs.

Mục tiêu gia nhập WTO rất quan trọng với Đài Loan bởi nền kinh tế của lãnh thổ này vốn phụ thuộc rất nhiều vào ngoại thương nên việc gia nhập WTO có thể giúp Đài Loan phát triển mạnh hơn các hoạt động thương mại và giao lưu kinh tế quốc tế khác. Thực tế, Đài Loan đã nộp đơn xin gia nhập GATT từ tháng


11/1990 và trải qua nhiều vòng đàm phán với GATT trước năm 1995, sau đó tiếp tục với WTO. Mặc dù vốn đã là một nền kinh tế thị trường mở nhưng Đài Loan vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong gia nhập WTO chủ yếu bởi vấn đề tư cách thành viên, chính sách thương mại mang tính phân biệt đối xử với một số đối tác và mối quan hệ tế nhị với Trung Quốc [34, tr. 382].

Để thoả mãn các điều kiện khi gia nhập, Đài Loan đã chấp nhận yêu cầu của WTO đối xử với Đài Loan như một nền kinh tế phát triển (năm 1995, GNP bình quân đầu người đã đạt trên 12.000 USD). Về chính sách thương mại, Đài Loan đã nhượng bộ và cam kết sửa đổi những chính sách được coi là vi phạm luật lệ của WTO, nhất là trong lĩnh vực buôn bán ô tô và xe gắn máy và nông nghiệp. Trước đây, Đài Loan chỉ đánh thuế nhập khẩu đối với các xe chở khách và xe vận tải để vận chuyển hàng hoá loại nhỏ từ Mỹ và EU nhưng cấm nhập khẩu từ một số nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ốxtrâylia. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, chính quyền Đài Loan đã sửa đổi một số chính sách của mình như đồng ý nhập khẩu 7000 xe ô tô của Hàn Quốc và tăng số lượng ô tô nhập khẩu sau khi gia nhập WTO; đồng ý hạn ngạch nhập khẩu 2000 xe ô tô và hứa mở cửa hoàn toàn thị trường ô tô cho Ốxtrâylia sau 10 năm gia nhập WTO; nhất trí hạn ngạch nhập khẩu 1750 xe ô tô của Malaixia, Cộng hoà Séc và Xlôvakia năm 1997; nhập khẩu khoảng 140.000 xe ô tô của Bắc Mỹ và châu Âu...; Trước tình trạng bị phê phán là đã áp dụng những quy định hạn chế số lượng nhập khẩu đối với 21 danh mục hàng hoá, Đài Loan đã thừa nhận những khiếm khuyết này và cam kết sửa đổi. Thực tế, Đài Loan đã cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu thịt bò, mở cửa ngành dịch vụ, giảm thuế đối với nông phẩm và sản phẩm công nghiệp nhập khẩu từ Ốxtrâylia... [34, tr. 383-384].

Trải qua nhiều nỗ lực đàm phán, Đài Loan đã trở thành thành viên của APEC; ngày 01/01/2002, Đài Loan chính thức là thành viên của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Đài Loan ban hành nhiều chính sách nhằm thực hiện những cam kết với WTO, điển hình như nhanh chóng mở cửa thị trường cho các sản phẩm

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí