Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA 400) : “ Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”.
Như vậy KSNB là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động liên tục, hiện diện ở mọi nơi trong tổ chức và liên kết chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Nó bao gồm toàn bộ các hoạt động, chính sách và các thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm điều hành các hoạt động của các đơn vị có hiệu quả, đồng thời ngăn ngừa và phát hiện các sai phạm trong đơn vị.
1.1.2. Mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống KSNB có 3 mục tiêu cơ bản sau:
Mục tiêu kết quả hoạt động: Hiệu quả và hiệu năng hoạt động
- Sử dụng có hiệu quả các tài sản và các nguồn lực khác.
- Hạn chế rủi ro.
- Đảm bảo sự phối hợp, cùng làm việc của toàn bộ nhân viên trong doanh nghiệp để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp, thực hiện được các chiến lược kinh doanh của đơn vị với hiệu năng và sự nhất quán.
- Tránh được các chi phí không đáng có/ việc đặt lợi ích khác (của nhân viên, của khách hàng…) lên trên lợi ích của doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Tĩnh - 1
- Kiểm Soát Nội Bộ Đối Với Hoạt Động Cho Vay Khách Hàng Doanh Nghiệp
- Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển
- Thực Trạng Kiểm Soát Nội Bộ Hoạt Động Cho Vay Tại Ngân
Xem toàn bộ 76 trang tài liệu này.
Mục tiêu thông tin: đảm bảo về tính trung thực và đáng tin cậy của các thông tin trên báo cáo tài chính; cập nhật thông tin tài chính và quản lý.
- Các báo cáo cần thiết được lập đúng hạn và đáng tin cậy để ra quyết định nội bộ trong doanh nghiệp.
- Thông tin gửi đến các BGĐ, HĐQT, các cổ đông và các cơ quan giám sát phải có đủ chất lượng và tính nhất quán.
- Báo cáo tài chính và các báo cáo quản lý khác được trình bày một cách hợp lý và dựa trên các nguyên tắc kế toán đã được xác định rõ ràng.
Mục tiêu tuân thủ: Sự tuân thủ pháp luật và quy định đảm bảo mọi hoạt
động của doanh nghiệp đều tuân thủ.
- Các luật và quy định.
- Các yêu cầu về giám sát.
- Các chính sách và quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp.
Mục tiêu mà hệ thống KSNB hướng đến là rất rộng, bao quát lên mọi mặt hoạt động và có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đơn vị, do đó khi thiết kế hệ thống KSNB, nhà quản lý phải biết kết hợp hài hòa các mục tiêu trên để có một hệ thống KSNB hữu hiệu nhất.
1.1.3. Nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ
- Bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm an toàn tài sản, bảo vệ tài sản khỏi bị hư
hỏng, mất mát, lãng phí, lạm dụng và sử dụng sai mục đích.
- Bảo đảm độ tin cậy và tính chính xác của thông tin, các báo cáo tài chính.
- Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, đảm bảo mọi thành viên trong
đơn vị tuân thủ nội quy của công ty cũng như các quy định của pháp luật.
- Giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh, ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm và gian lận trong các hoạt động, các bộ phận của doanh nghiệp.
- Đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đề ra.
1.1.4. Những yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt về ngành nghề kinh doanh, mục tiêu hoạt động, tổ chức trong các đơn vị nhưng mỗi đơn vị, mỗi doanh nghiệp đều xây dựng cho mình một hệ thống KSNB dựa trên những khung cơ bản tương tự nhau. Theo quan điểm phổ biến hiện nay thì Ủy ban các nhà tài trợ COSO được lựa chọn là khung cơ bản nhất về hệ thống KSNB của một đơn vị, theo đó hệ thống KSNB bao gồm 5 yếu tố sau:
1.1.4.1. Môi trường kiểm soát
Là những yếu tố của tỏ chức ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống KSNB và là các yếu tố tạo ra một môi trường trong đó toàn bộ thành viên của tổ chức có nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống KSNB hay không. Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi phối ý thức kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị. Môi trường kiểm soát tốt sẽ là nền tảng cho sự hoạt động hiệu quả của hệ thống KSNB. Ngược lại, nếu hoạt động kiểm tra, kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà
quản lý thì chắc chắn các quy chế về KSNB sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị. Các nhân tố chính của môi trường kiểm soát bao gồm:
Tính chính trực và giá trị đạo đức
Sự hữu hiệu của hệ thống KSNB trước tiên phụ thuộc vào tính chính trực và việc tôn trọng các giá trị đạo đức của những người liên quan đến các quá trình kiểm soát. Để đáp ứng yêu cầu này, các nhà quản lý cấp cao phải xây dựng, ban hành và thông tin rộng rãi các hướng dẫn về những nguyên tắc đạo đức, hạnh kiểm liên quan đến mọi cấp bậc trong tổ chức; và phải tự mình thực hiện những chuẩn mực về đạo đức, cư xử đúng đắn để có thể ngăn chặn các hành vi thiếu đạo đức.
Một cái khác có thể nâng cao tính chính trực và sự tôn trọng các giá trị đạo đức là phải loại trừ hoặc giảm thiểu những sức ép hay những điều kiện thuận lợi để nhân viên có thể thực hiện hành vi thiếu trung thực.
Triết lý và phong cách điều hành của nhà quản lý
Triết lý quản lý thể hiện qua quan điểm và nhận thức của người quản lý, phong cách điều hành lại thể hiện qua cá tính, tư cách và thái độ của họ khi điều hành đơn vị. Sự khác biệt về triết lý quản lý và phong cách điều hành có thể ảnh hưởng lớn đến môi trường kiểm soát và tác động đến việc thực hiện mục tiêu của đơn vị.
Thực chất của một hệ thống kiểm soát hiệu quả nằm trong quan điểm và cách thức điều hành của người quản lý. Nếu nhà quản lý có cái nhìn đúng đắn về hệ thống KSNB và quan tâm đến sự vận hành của nó thì hoạt động kiểm soát mới có hiệu lực hơn là nhà quản lý không am hiểu về hoạt động này thì sẽ có cái nhìn lệch lạc về nó.
Một khía cạnh khác của phong cách điều hành là công tác kế hoạch. Kế hoạch là mục tiêu để phấn đấu, là căn cứ để đưa ra quyết định quản lý, đánh giá kết quả công việc và quan trọng là căn cứ kiểm soát các hoạt động của đơn vị. Hệ thống kế hoạch được xây dựng tốt thể hiện cách thức điều hành khoa học của người quản lý đơn vị.
Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức thực chất là sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn giữa các bộ phận trong đơn vị. Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong đơn vị sẽ góp phần tạo ra môi trường kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành các quyết định, triển khai các quyết định đó
cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết định đó trong toàn bộ đơn vị. Một cơ cấu tổ chức hợp lý còn góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chồng chéo hoặc bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức năng; bảo đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các bước thực hiện công việc.
Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm
Phân định quyền hạn và trách nhiệm được xem là phần mở rộng của cơ cấu tổ chức. Nó cụ thể hóa về quyền hạn và trách nhiệm của từng thành viên trong các hoạt động của đơn vị; mọi người phải tự hiểu rằng mọi hoạt động của họ sẽ ảnh hưởng đến người khác như thế nào; và họ sẽ phụ trách cụ thể công việc gì.
Chính sách nhân sự
Sự phát triển của mọi đơn vị luôn gắn liền với đội ngũ nhân viên và họ luôn là nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của đơn vị. Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều quá trình kiểm soát có thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo được các mục tiêu đề ra của KSNB. Bên cạnh đó, mặc dù đơn vị có thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát chặt chẽ nhưng với đội ngũ nhân viên kém năng lực trong công việc và thiếu trung thực về phẩm chất đạo đức thì hệ thống KSNB không thể phát huy hiệu quả.
Tóm lại, với những lí do nêu trên, các nhà quản lý đơn vị cần có những chính sách cụ thể, rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật nhân viên. Việc đào tạo, bố trí cán bộ và đề bạt nhân sự phải phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức, đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp.
1.1.4.2. Đánh giá rủi ro
Không lệ thuộc vào quy mô, cấu trúc, loại hình hay vị trí địa lý, bất kỳ tổ chức nào khi hoạt động đều bị các rủi ro xuất hiện từ các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động.
Các yếu tố bên trong:
- Sự quản lý thiếu minh bạch.
- Không coi trọng đạo đức nghề nghiệp.
- Chất lượng cán bộ thấp.
- Sự cố hỏng hóc của hệ thống máy tính, trang thiết bị, hạ tầng cơ sở.
- Tổ chức và cơ sở hạ tầng không thay đổi kịp với sự thay đổi, mở rộng của cơ
sở sản xuất.
- Chi phí cho quản lý và trả lương cao, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát thích hợp; hoặc do xa công ty mẹ hoặc do thiếu sự quan tâm…
Các yếu tố bên ngoài:
- Thay đổi công nghệ làm thay đổi quy trình vận hành.
- Thay đổi thói quen của người tiêu dùng làm các sản phẩm và dịch vụ hiện hàn bị lỗi thời.
- Xuất hiện yếu tố cạnh tranh không mong muốn tác động đến giá cả và thị phần.
- Sự ban hành của một đạo luật hay chính sách mới, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức...
Để tránh bị thiệt hại do các tác động nêu trên, nhà quản lý cần phải:
- Thiết lập các mục tiêu của tổ chức, kể cả mục tiêu chung của tổ chức và mục tiêu riêng cho từng hoạt động.
- Nhận dạng và phân tích rủi ro khiến cho các mục đích không thể thực hiện.
- Thiết lập các cơ chế nhận dạng và đối phó các rủi ro phát sinh do các biến
động trong môi trường…
1.1.4.3. Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là các chính sách, quy trình, thông lệ được xây dựng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu do cấp quản lý điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan.
Các hoạt động kiểm soát do các nhà quản lý xây dựng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng và chế độ ủy quyền. Những hoạt động kiểm soát chủ yếu trong đơn vị gồm:
Phân chia trách nhiệm đầy đủ:
Phân chia trách nhiệm là không cho phép một thành viên nào được giải quyết mọi mặt của nghiệp vụ từ khi hình thành cho đến khi kết thúc.
Mục đích phân chia trách nhiệm nhằm để các nhân viên kiểm soát lẫn nhau, nếu có sai sót xảy ra sẽ được phát hiện nhanh chóng, đồng thời giảm cơ hội cho bất kỳ thành viên nào trong quá trình thực hiện nghiệp vụ có thể gây ra và giấu đi sai phạm của mình.
Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ:
Để thông tin đáng tin cậy cần phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát nhằm kiểm tra tính xác thực, đầy đủ và việc phê chuẩn các nghiệp vụ. Khi kiểm soát quá trình xử lý thông tin, cần đảm bảo rằng:
- Phải có một hệ thống chứng từ, sổ sách tốt:
- Các chứng từ phải được đánh số liên tục trước khi sử dụng để có thể kiểm soát, tránh thất lạc và dễ dàng truy cập khi cần thiết.
- Chứng từ cần phải lập ngay khi nghiệp vụ vừa xảy ra.
- Cần thiết kế đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và có thể sử dụng cho nhiều công dụng.
- Tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học, kịp thời: chứng từ chỉ đi qua các bộ phận có liên quan đến nghiệp vụ, được xử lý nhanh chóng để chuyển cho các bộ phận tiếp theo.
- Sổ sách cần phải đóng chắc chắn, đánh số trang, quy định nguyên tắc ghi chép, có chữ ký xét duyệt của người kiểm soát…
- Tổ chức lưu trữ, bảo quản tài liệu kế toán khoa học, an toàn, đúng quy định và dễ dàng truy cập khi cần thiết.
- Phê chuẩn đúng đắn cho các nghiệp vụ hoặc hoạt động:
Cần đảm bảo là tất cả các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê chuẩn bởi một nhân viên quản lý trong phạm vi quyền hạn cho phép.
- Phê chuẩn chung: là trường hợp người quản lý ban hành các chính sách để áp dụng cho toàn đơn vị.
- Phê chuẩn cụ thể: là trường hợp người quản lý xét duyệt từng nghiệp vụ riêng biệt chứ không đưa ra chính sách chung nào.
Kiểm soát hiện vật:
Hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ sách và tài sản, những ấn chỉ đã được đánh dấu trước nhưng chưa sử dụng, các chương trình tin học và những hồ sơ dữ liệu. Chỉ những người được ủy quyền mới được phép tiếp cận với tài sản của đơn vị.
Việc so sánh, đối chiếu giữa sổ sách kế toán và tài sản hiện có trên thực tế bắt buộc phải được thực hiện định kỳ để phát hiện chênh lệch, điều tra nguyên nhân, nhờ đó sẽ phát hiện được yếu kém trong thủ tục kiểm soát. Nếu không thì tài sản có thể bị bỏ phế, mất mát hoặc có thể không phát hiện được những hành vi đánh cắp.
Kiểm tra độc lập việc thực hiện:
Là việc kiểm tra được tiến hành bởi các cá nhân (hoặc bộ phận) khác với các cá nhân hoặc bộ phận đang thực hiện nghiệp vụ. Nhu cầu cần kiểm tra độc lập xuất phát từ hệ thống KSNB thường có khuynh hướng bị giảm sút tính hữu hiệu trừ khi có một cơ chế thường xuyên kiểm tra soát xét lại. Hơn nữa, ngay cả khi chất lượng kiểm soát tốt vẫn có thể xảy ra các hành vi tham ô hay cố tình sai phạm.
Soát xét lại việc thực hiện:
Hoạt động này chính là xem xét lại những việc đã được thực hiện bằng cách so sánh số thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán, kỳ trước, và các dữ liệu khác có liên quan như những thông tin không có tính chất tài chính, đồng thời còn xem xét trong mối liên hệ với tổng thể để đánh giá quá trình thực hiện. Soát xét lại quá trình thực hiện giúp nhà quản lý biết được một cách tổng thể là mọi thành viên có theo đuổi mục tiêu của đơn vị một cách hữu hiệu và hiệu quả hay không. Nhờ thường xuyên nghiên cứu về những vấn đề bất thường xảy ra trong quá trình thực hiện, nhà quản lý có thể thay đổi kịp thời chiến lược hoặc kế hoạch hay những điều chỉnh thích hợp.
1.1.4.4. Hệ thống thông tin và truyền thông
Mục đích của hệ thống thông tin và truyền thông của tổ chức là nhận biết, thu thập, phân loại, phân tích, ghi sổ và báo cáo tất cả các nghiệp vụ kinh tế. Một hệ thống thông tin và truyền thông tốt cần phải đạt được:
- Các chỉ tiêu, yếu tố ghi chép trên chứng từ kế toán phải rõ ràng, trung thực và đầy đủ.
- Tính hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã ghi trên chứng từ kế toán.
- Đo lường giá trị của các nghiệp vụ để ghi chép đúng giá trị của chúng.
- Các nghiệp vụ kinh tế được ghi chép đúng kỳ.
- Hệ thống tài khoản kế toán được thiết lập đúng đắn và hợp lý.
- Báo cáo tài chính phản ánh thông tin một cách chính xác và trung thực.
1.1.4.5. Giám sát
Giám sát là bộ phận cuối cùng của KSNB, là một quá trình đánh giá chất lượng của hệ thống KSNB trong suốt thời kỳ hoạt động để có các điều chỉnh và cải tiến thích hợp. Giám sát có một vai trò quan trọng, nó giúp KSNB luôn duy trì sự hữu hiệu quả các thời kỳ khác nhau. Giám sát được thực hiện ở mọi hoạt động trong doanh nghiệp (DN) và theo hai cách: giám sát thường xuyên và giám sát định kỳ.
Giám sát thường xuyên:
Giám sát thường xuyên diễn ra ngay trong quá trình hoạt động của DN, do các nhà quản lý và nhân viên thực hiện trách nhiệm của mình. Giám sát thường xuyên thường được áp dụng cho những yếu tố quan trọng trong KSNB. Giám sát để đánh giá việc thực hiện các hoạt động thường xuyên của nhân viên nhằm xem xét hệ thống KSNB có nên tiếp tục thực hiện chức năng nữa hay không.
Giám sát định kỳ:
Giám sát định kỳ được thực hiện thông qua chức năng KSNB và kiểm toán độc lập.
Qua đó phát hiện kịp thời những yếu kém trong hệ thống và đưa ra biện pháp hoàn thiện.
1.1.5. Những hạn chế tiềm tàng của hệ thống kiểm soát nội bộ
Một hệ thống KSNB dù có được đầu tư xây dựng hợp lý, chặt chẽ, vững mạnh thế nào, được thiết kế hoàn hảo ra sao vẫn không hoàn toàn hữu hiệu. Bởi lẽ, ngay cả khi xây dựng hệ thống KSNB hoàn hảo về cấu trúc thì hiệu quả thật sự của nó phụ thuộc vào nhân tố con người, tức là phụ thuộc vào năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng nhân sự. Nói cách khác, hoạt động kiểm soát không thể bảo đảm tuyệt đối cho các mục tiêu kiểm soát do những hạn chế tiềm tàng của hệ thống.
Theo Th.S Lâm Thị Hồng Hoa (2002), một hệ thống KSNB hữu hiệu chỉ có thể hạn chế tối đa các sai phạm chứ không thể đảm bảo rủi ro, gian lận và sai sót không xảy ra. Những hạn chế vốn có của hệ thống KSNB bao gồm:
- Ban giám đốc thường xuyên yêu cầu chi phí của một thủ tục kiểm tra không
vượt quá những lợi ích mà kiểm tra đó mang lại.
- Phần lớn các KSNB thường tác động đến các nghiệp vụ lặp đi lặp lại mà
không có tác động đến những giao dịch bất thường.
- Gian lận cũng có thể xảy ra do sự thông đồng giữa các nhân viên trong tổ chức với nhau hoặc với bên ngoài.
- KSNB khó ngăn cản được những gian lận và sai sót của người quản lý cấp cao. Các thủ tục kiểm soát là do người quản lý đặt ra, nó chỉ kiểm tra việc gian lận, sai sót của nhân viên. Khi nhà quản lý cấp cao cố tình gian lận, họ có thể tìm cách bỏ qua các thủ tục kiểm soát cần thiết.
- Bất kỳ một hoạt động kiểm soát trực tiếp nào của KSNB cũng phụ thuộc vào yếu tố con người. Con người là nhân tố gây ra sai sót từ những hạn chế xuất phát từ bản thân như: vô ý, bất cẩn, sao nhãng, đánh giá hay ước lượng sai, hiểu sai chỉ dẫn của cấp trên hoặc các báo cáo của cấp dưới.
- Nhà quản lý lạm quyền: nhà quản lý bỏ qua các quy định kiểm soát trong quá trình thực hiện nghiệp vụ có thể dẫn đến việc không kiểm soát được các rủi ro và làm cho môi trường kiểm soát trở nên yếu kém.
- Những thay dổi của tổ chức, thay đổi quan điểm quản lý và điều kiện hoạt
động có thể dẫn đến những thủ tục kiểm soát không phù hợp.
1.2. Những vấn đề chung về hoạt động cho vay khách hàng doanh nghiệp
1.2.1. Các khái niệm
Theo TS Nguyễn Ninh Kiều (2007), các khái niệm cơ bản trong cho vay khách hàng doanh nghiệp bao gồm:
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi.
- Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến khi thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
- Kỳ hạn trả nợ là khoảng thời gian trong thời gian cho vay đã được thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín dụng.
- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng chấp thuận thay đổi kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng, mà kỳ hạn trả nợ cuối cùng không thay đổi.
- Gia hạn nợ vay là việc tổ chức tín dụng chấp thuận kéo dài thêm một khoảng thời gian trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay vượt quá thời hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng tín dụng.
- Dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống là một tập hợp những đề xuất; trong đó có nhu cầu vốn, vay vốn, cách thức sử dụng vốn và cách thức trả nợ vay trong một khoảng thời gian xác định
1.2.2. Nguyên tắc vay vốn
Bởi vậy, khi thực hiện hoạt động cấp tín dụng các ngân hàng phải luôn đảm bảo các nguyên tắc nhất định, đây cũng chính là sự đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Các nguyên tắc đó là:
Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng: Khi khách hàng và ngân hàng đi đến cam kết vay vốn - cho vay vốn, tức là hai bên đã có một sự đồng ý về mục đích sử dụng vốn được thể hiện trong hợp đồng.Về phía ngân hàng, quyết định cho vay dựa trên sự thẩm định các dự án. Việc đảm bảo đúng hợp đồng, sử dụng vốn đúng cam kết không những mang lại sự chắc chắn trong khả năng thu hồi vốn cho ngân hàng mà còn có lợi cho khách hàng. Bởi việc sử dụng vốn đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ cho khách hàng. Hơn nữa, nó giúp khách hàng đảm bảo uy tín và xây dựng được mối quan hệ tốt với ngân hàng.
Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng: Xuất phát từ việc ngân hàng đi vay để cho vay vì vậy sau một thời hạn đã được quy định khách hàng vay tiền phải hoàn trả tiền cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả tiền cho người gửi. Tiền lãi thu được từ sự chênh lệch lãi suất sẽ giúp bù đắp, trang trải chi phí hoạt động.
Trên thực tế khi khách hàng đi vay vốn, các ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng đảm bảo các yêu cầu sau:
- Có năng lực hành vi dân sự.
- Có mục đích vay vốn hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết.
- Có phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
- Thực hiện quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam.
1.2.3. Điều kiện vay vốn
Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
Đối với khách hàng vay là tổ chức và các nhân Việt Nam:
- Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự.
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự.
Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật của nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật.
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.4. Hồ sơ vay vốn
1. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn như quy định.
2. Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng cần gửi cho tổ chức tín dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng, loại cho vay và khoản vay.
1.2.5. Thẩm định và quyết định cho vay
1. Tổ chức tín dụng xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay.
2. Tổ chức tín dụng xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay.
3. Tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay hay không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết cho khách hàng. Trường hợp quyết định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ lí do không cho vay.
1.2.6. Hợp đồng tín dụng
Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được thành lập hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản đảm bảo, phương thức trả nợ và các cam kết khác được các bên thỏa thuận.
1.2.7. Giới hạn cho vay
1. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu