Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 17


Thứ nhất, về mục tiêu của CNH, HĐH

Đảng ta xác định, mục tiêu tối thượng của CNH, HĐH ở Việt Nam là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Căn cứ vào điều kiện cụ thể, vào thế và lực của đất nước, vào những đòi hỏi khách quan, Đảng ta xác định, mục tiêu tổng quát đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thứ hai, về lộ trình, bước đi và phương thức tiến hành CNH, HĐH

Đảng và Nhà nước ta đã từng bước được xác định rõ lộ trình và bước đi trong CNH, HĐH. Về lộ trình, giai đoạn trước tiên là ổn định tình hình kinh tế - xã hội và tạo dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá. Chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Về bước đi, CNH, HĐH ở Việt Nam vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Trong đó, đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ lớn và cấp thiết của quá trình CNH, HĐH, đồng thời cần tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ hiện đại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, hiệu quả. Đặc biệt, trước những biến động của tình hình trong nước, quốc tế và những đòi hỏi cấp thiết của đất nước, Đảng ta đã xác định: i) Rút ngắn quá trình CNH, HĐH trên cơ sở tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra, nói cách khác là tiến hành CNH, HĐH dựa vào hội nhập; ii) Rút ngắn quá trình CNH, HĐH trên cơ sở tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước;

iii) Chính thức khẳng định kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH.


Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định Việt Nam tiến hành CNH, HĐH dựa trên cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhà nước đã chính thức thừa nhận các quan hệ thị trường là yếu tố quyết định sự phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua hệ thống giá cả thị trường, thị trường là lực lượng trực tiếp quyết định quá trình hình thành và phát triển cơ cấu ngành, còn Nhà nước đóng vai trò can thiệp, hỗ trợ bằng các chính sách, biện pháp nhằm tạo lập và điều tiết thị trường, đảm bảo cho kinh tế thị trường phát huy được hiệu quả cao nhất đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Nguồn lực cho CNH, HĐH là mọi nguồn lực cả ở trong và ngoài nước, trong đó giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Động lực cho CNH, HĐH là tổng thể các yếu tố vật chất và tinh thần tạo ra sức mạnh để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, bền vững và hiệu quả.

Thứ ba, về các chính sách của Nhà nước thúc đẩy CNH, HĐH

Thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về CNH, HĐH, thời gian qua, Nhà nước ta đã từng bước trở lại làm đúng chức năng của mình, đó là: Định hướng cho sự phát triển, cung cấp và duy trì khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế, cung cấp các dịch vụ kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô... Với sự nghiệp CNH, HĐH, Nhà nước vừa đóng vai trò là chủ thể, vừa đóng vai trò tạo lập môi trường thuận lợi thúc đẩy CNH, HĐH.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Thực tế, vai trò của Nhà nước trong việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội ngày càng được đề cao. Nhà nước đã tập trung vào công tác hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và quản lý việc thực hiện quy hoạch, các kế hoạch phát triển, trong đó chủ yếu là các kế hoạch trung, dài hạn nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Đồng thời, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, điều chỉnh thông qua các chính sách, công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, thông qua các chương trình, dự án nhằm tạo khoảng không gian


Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 17

phát triển rộng rãi cho các chủ thể trong nền kinh tế và cũng nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho CNH, HĐH. Cụ thể:

- Chính sách xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tạo hành lang pháp lý cho sự hoạt động của các chủ thể thực hiện CNH, HĐH. Với quan điểm CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, chủ thể thực hiện CNH, HĐH là mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, thời gian qua, Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành các chủ trương, nguyên tắc xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hàng loạt các đạo luật về kinh tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân sách, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Khoa học và công nghệ... đã được ban hành. Sự đổi mới cơ chế, chính sách của Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi, đảm bảo tôn trọng quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do trong đầu tư kinh doanh theo pháp luật của các thành phần kinh tế. Nhà nước đã đề ra các chính sách và giải pháp tạo lập các loại thị trường bao gồm thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ... nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển. Chính sách cải cách nền hành chính cũng từng bước được thực hiện nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, đơn giản, thuận tiện cho hoạt động đầu tư. Những chính sách, giải pháp của Nhà nước đã góp phần tạo lòng tin và động viên, khuyến khích mọi công dân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện CNH, HĐH.

- Chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Để khắc phục tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế, Đảng ta đã đề chủ trương từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra chủ trương thực hiện ba chương trình kinh tế mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội VII (1991) chủ trương đẩy mạnh ba chương trình kinh tế lớn với nội dung cao hơn trước và từng bước xây


dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá. Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) chủ trương chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH trên cơ sở phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh của đất nước gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Như vậy với từng giai đoạn, nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được cụ thể hoá. Đây chính là cơ sở để Nhà nước điều chỉnh chính sách đầu tư, xác định, lựa chọn các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng trong định hướng xác lập cơ cấu kinh tế mới và trong định hướng phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cùng các chính sách, giải pháp nhằm thu hút các nguồn lực đa dạng của toàn xã hội cho đầu tư phát triển nhằm từng bước tạo lập một cơ cấu ngành kinh tế năng động, hiệu quả. Hiện nay, nội dung trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta là thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực và phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Đồng thời, hình thành cơ cấu công nghiệp dựa trên tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước, tập trung vào phát triển mạnh công nghiệp chế biến và chế tạo; xây dựng có chọn lọc một số ngành công nghiệp mũi nhọn gắn với xu hướng phát triển của khoa học - công nghệ thời đại.

- Chính sách huy động vốn cho CNH, HĐH: Xác định được tầm quan trọng của vốn đối với CNH, HĐH và tăng trưởng kinh tế, chiến lược vốn được xác định là số một trong chiến lược tăng trưởng của nước ta. Nhà nước đã từng bước hoạch định hệ thống cơ chế chính sách huy động vốn cho đầu tư phát triển. Việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần cởi trói và giải phóng lực lượng sản xuất, tạo cơ chế huy động nguồn vốn đa dạng của toàn xã hội cho đầu tư phát triển, chủ yếu là mở ra cho khu vực kinh tế tư nhân cả trong và ngoài nước cơ hội phát triển. Cụ thể:

+ Gia tăng nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển: Nhà nước đã từng bước điều chỉnh chính sách thuế nhằm đảm bảo tăng nguồn thu cho ngân sách.


Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong chi ngân sách nhà nước được nâng dần; điều chỉnh mục tiêu, cơ cấu, lĩnh vực đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo… Trong giai đoạn 2000 - 2004, chi đầu tư phát triển đã chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách nhà nước5.

+ Chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thông qua việc từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý, xoá bỏ sự đối xử phân biệt về thuế, về điều kiện và lãi suất tín dụng… đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định, minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế, với điều kiện cụ thể của đất nước nhằm tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhà nước đã điều chỉnh chính sách thuế nhằm nâng cao vai trò của công cụ thuế trong việc khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư, ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật mới...

+ Chính sách cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút FDI: Nhà nước đã tiến hành xây dựng quy hoạch tổng thể cho việc thu hút vốn nước ngoài. Đồng thời, Nhà nước đã hoàn thiện hệ thống luật pháp về đầu tư nước ngoài; đổi mới các thủ tục hành chính và cách thức làm việc trong các khâu của quá trình xét duyệt và phê chuẩn các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài; cải thiện và xây dựng môi trường đầu tư bình đẳng giữa các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước; xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất; thực hiện chính sách thuế ưu đãi...

+ Nhà nước đã có chính sách cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp vốn tín dụng cho đầu tư phát triển; phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư...; thực hiện lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng theo các cam


5 Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2006, tr. 84


kết của Chính phủ, từng bước gỡ bỏ các hạn chế với hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, mở rộng hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế; xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán đã tạo khả năng thu hút nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển.

- Về chính sách phát triển khoa học - công nghệ

Với quan điểm coi khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định vai trò then chốt của khoa học và kỹ thuật. Thời gian qua, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị TW 2 khoá VIII (1996); Kết luận của Hội nghị TW 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003)... Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đổi mới chính sách phát triển khoa học - công nghệ, trong đó tập trung vào các nội dung sau:

+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học - công nghệ: Xây dựng và tổ chức triển khai nghiên cứu các chương trình khoa học - công nghệ theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; Tăng dần tỷ lệ chi ngân sách nhà nước và đa dạng hoá nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; Triển khai áp dụng thực hiện quyền tự chủ về tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Mở rộng hơn quyền chủ động cho cán bộ khoa học và công nghệ trong việc ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ...

+ Tạo lập môi trường pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư, đổi mới công nghệ: Nhà nước có chính sách khuyến khích và thúc đẩy hoạt động R&D, ưu đãi đối với hoạt động FDI gắn với hoạt động chuyển giao công nghệ tiên tiến; Thành lập và khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ công


nghệ như các trung tâm hỗ trợ công nghệ, các trường dạy nghề... góp phần đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ hiểu biết và kiến thức về công nghệ cho người lao động; Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo kỹ năng và xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học - công nghệ...

+ Hình thành các thể chế hỗ trợ cho phát triển thị trường công nghệ. Các quy định pháp lý về hợp đồng khoa học và công nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ đã được ban hành tạo điều kiện cho việc thương mại hoá các thành quả khoa học và công nghệ.

Nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là đã tạo môi trường cho các chủ thể kinh doanh tiếp cận công nghệ mới, đầu tư phát triển và chuyển giao công nghệ, mới góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Về chính sách phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực được coi là một trong những nguồn lực có vai trò quan trọng nhất đối với sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta. Đảng ta đã khẳng định giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng ta về phát triển giáo dục - đào tạo, Nhà nước ban hành Luật giáo dục (1998), phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 (2001) và hàng loạt các chương trình cải cách giáo dục - đào tạo ở các cấp. Đồng thời, Nhà nước gia tăng chi ngân sách và thực hiện chính sách xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo nhằm phát triển hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, thống nhất bao gồm đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học; Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở; Mở rộng quy mô giáo dục đại học; Đa dạng các loại hình trường trung học và dạy nghề. Đặc biệt, thời gian gần đây, Nhà nước chú trọng phát triển các trường dạy nghề, tăng cường trang bị phương tiện và cơ sở vật chất hiện đại cho công tác


đào tạo nghề. Nhà nước còn có chính sách cho phép các cơ sở giáo dục - đào tạo trong nước liên kết với các cơ sở giáo dục - đào tạo nước ngoài trong hoạt động giáo dục đào tạo và có chính sách cử người đi học nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, mở rộng hình thức du học tự túc.

Bên cạnh chính sách phát triển giáo dục đào tạo, Nhà nước có chính sách cải cách chế độ tiền lương nhằm gia tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện các chính sách xã hội như y tế, chăm sóc sức khoẻ để góp phần nâng cao thể chất và trí lực của lực lượng lao động. Cơ chế tuyển dụng lao động trong các cơ quan quản lý nhà nước và trong các doanh nghiệp cũng được đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trên cơ sở khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động.

Những chính sách và biện pháp từ phía nhà nước đã tạo điều kiện huy động mọi nguồn lực từ nhà nước và các tầng lớp dân cư cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo. Năm 2000, chi sự nghiệp giáo dục đào tạo chiếm 11,63% tổng chi ngân sách nhà nước, năm 2002 con số này là 12,04% và năm 2004 là 11,83%6. Tỷ trọng nguồn kinh phí xã hội đóng góp trong tổng kinh phí giáo dục ngày càng tăng, đạt khoảng 25% vào năm 2000 [7, tr. 68]. Hệ thống giáo dục Việt Nam bước đầu được đa dạng hoá về cả loại hình, phương thức và nguồn

lực. Cơ sở vật chất cho ngành giáo dục đào tạo đã được hoàn thiện dần. Hình thức liên kết đào tạo với nước ngoài đã góp phần thu hút thêm nguồn lực nước ngoài trong hoạt động đào tạo nhân lực cho Việt Nam, tăng cường cơ sở vật chất, tiếp thu công nghệ đào tạo tiên tiến, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên. Việc gia tăng số người đi học nước ngoài đã góp phần cung cấp cho nền kinh tế lực lượng lao động được đào tạo theo các chương trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài. Chất lượng giáo dục đào tạo cũng có nhiều chuyển biến. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo theo các loại hình và trình độ khác nhau đã



6 Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2006, tr. 84

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí