Giải Pháp Liên Quan Đến Vai Trò Của Chính Quyền Địa Phương Cấp Tỉnh Trong Thanh Tra, Kiểm Tra Công Tác Tổ Chức, Quản Lý Và Kinh Doanh Du Lịch Tỉnh Ninh

144


công trình dịch vụ như tổ hợp thể thao, khu hội chợ, hội nghị, hội thảo, các nhà hàng là hết sức quan trọng.

Về hướng đầu tư phát triển không gian hệ thống khách sạn thì cần ưu tiên xem xét các dự án đầu tư khách sạn cao cấp thương mại ở những đô thị lớn và ở trung tâm du lịch quan trọng trong đó có thành phố Ninh Bình. Hệ thống khách sạn cao cấp cũng cần được xem xét xây dựng trong một số khu du lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế của địa phương bao gồm quần thể khu du lịch sinh thái Tràng An, cố đô Hoa Lư, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động và khu du lịch sinh thái Vân Long. ở các trọng điểm du lịch khác của tỉnh chỉ nên đầu tư xây dựng các khách sạn chuyển tiếp với tiêu chuẩn trung bình để đảm bảo tính hiệu quả trong kinh doanh.

* Đầu tư phát triển hệ thống các công trình vui chơi giải trí:

Một trong những khâu còn hạn chế trong hoạt động phát triển du lịch của Ninh Bình là sự nghèo nàn của hệ thống các công trình vui chơi giải trí. Điều này đã hạn chế đáng kể thời gian lưu trú của khách và hiệu quả kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh.

Để khắc phục tình trạng trên cần xem xét ưu tiên đầu tư xây dựng phát triển các công trình vui chơi, giải trí tại các trọng điểm du lịch của tỉnh như TP. Ninh Bình, khu du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc - Bích Động để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nội địa. Kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam đã cho thấy tính hiệu quả cao của hướng đầu tư này trong hoạt động du lịch.

* Đầu tư bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch:

Một trong những mục đích chính của khách du lịch đến Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng là để tìm hiểu về nền văn hóa Việt Nam, về lịch sử phát triển dựng nước và giữ nước của dân tộc. Do đó việc đầu tư bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa và các lễ hội truyền thống không chỉ có ý nghĩa giáo dục những thế hệ sau về những giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc, về những hy sinh và kỳ tích của các thế hệ cha ông trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động phát triển du lịch.

Chính vì vậy cần có sự đầu tư thỏa đáng cho lĩnh vực này. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Ninh Bình, một địa phương có sự tập trung cao các di tích lịch sử văn hóa có giá trị của đất nước. Ngành Du lịch và Văn hóa - Thông tin Ninh Bình cần chủ động phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin, Tổng cục Du lịch sớm xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện các dự án tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, ưu tiên đối với những di tích đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa phát huy giá trị phục vụ giáo

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

145


Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình - 20

dục truyền thống và hoạt động du lịch, trước mắt để phục vụ tốt sự kiện “1000 năm Thăng Long - Hà Nội”.

* Đầu tư cho công tác đào tạo nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ du lịch của đội ngũ cán bộ và lao động trong ngành du lịch. Đây là một lĩnh vực đầu tư quan trọng, đặc biệt trong điều kiện du lịch Ninh Bình đang có những hoạt động để “hội nhập” với hoạt động phát triển du lịch của vùng du lịch Bắc Bộ cũng như du lịch cả nước và khu vực.

 Đầu tư tôn tạo, khai thác và bảo vệ tài nguyên

Việc quản lý và khai thác các danh lam thắng cảnh ở Ninh Bình đã có sự thống nhất và phối hợp giữa các ngành, các chủ thể quản lý, song việc khai thác các tài nguyên du lịch một số nơi chưa gắn liền với quy hoạch, thiếu các định hướng phát triển lâu dài, nên chưa phát huy đúng ý nghĩa, chức năng của từng khu, cụm, điểm du lịch.

Ngoài ra, tình trạng khai thác tài nguyên du lịch thời gian qua đang ở tình trạng mất cân đối. Tại hầu hết các điểm du lịch, tình trạng mở hàng quán kinh doanh thiếu quy hoạch và khoa học đã làm giảm đi vẻ đẹp thanh lịch của Ninh Bình, ảnh hưởng đến môi trường du lịch. Trong khi một số điểm du lịch bị khai thác quá tải thì tại nhiều nơi, tài nguyên vẫn còn ở dạng tiềm năng, chưa được đầu tư khai thác hoặc khai thác với quy mô quá nhỏ, điều này vừa ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách vừa làm cho tài nguyên và môi trường bị xâm hại.

Các tài nguyên nhân văn ở Ninh Bình hiện cũng đang ở tình trạng khai thác thiếu cân đối. Nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian truyền thống của các dân tộc ít người bị mai một dần do sự xâm nhập của các sản phẩm văn hoá hiện đại, do không được quy hoạch giữ gìn và phát triển kịp thời, đúng mức.

Mặc dù trong quy hoạch đã có những định hướng phát triển du lịch văn hoá trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên vốn có; Thêm vào đó cảnh quan thiên nhiên bị xâm lấn, sự phát triển đô thị hoá làm cho nhiều nơi đã mất đi vẻ đẹp hài hoà giữa các công trình kiến trúc và môi trường tự nhiên.

Để quản lý tài nguyên và nâng cao chất lượng du lịch, tỉnh cần chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành liên quan thống nhất quản lý như sau:

- Về quy hoạch: Để tránh sự chồng chéo trong khai thác tài nguyên lãnh thổ giữa các ngành kinh tế, dẫn đến tình trạng cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường cần có sự lồng ghép về quy hoạch giữa ngành du lịch và các ngành khác có liên quan. Mọi phương án khai thác tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đều phải được cân nhắc kỹ trên cơ sở những luận cứ khoa học vững chắc có tính đến mối quan hệ với các ngành kinh tế có liên quan và các tác động đến môi trường

146


tự nhiên và kinh tế-xã hội của khu vực. Đây sẽ là một giải pháp tương đối toàn diện và có hiệu quả nếu như việc quy hoạch được tiến hành nghiêm túc cũng như việc tổ chức thực hiện quy hoạch được đảm bảo.

Hiện nay, thực tế phát triển ngành sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh cũng đã có những tác động đến phát triển du lịch, thể hiện sự chưa đồng bộ trong thực hiện quy họach chung

- Về luật pháp và chính sách: Đây là một giải pháp có tính chiến lược đảm bảo cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội phải tuân thủ những quy định về môi trường của pháp luật. Luật Môi trường (2005) được ban hành là cơ sở pháp lý cơ bản đối với việc bảo vệ môi trường ở nước ta. Tuy nhiên, để thực thi có hiệu quả các quy định có tính pháp lý trên cần thiết phải xây dựng các quy định cụ thể tại từng địa phương và tại các khu điểm du lịch. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng xấu đến môi trường đều phải bị xử lý.

Quy định bắt buộc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với mọi dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội là biểu hiện tích cực của việc thực hiện giải pháp này. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ thực sự có hiệu quả nếu như thiết lập được hệ thống quản lý và kiểm soát sự biến động môi trường dưới tác động của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.

- Về kỹ thuật: Đây là giải pháp cần thiết nhằm khắc phục có hiệu quả các sự cố về môi trường, sự cố thiên tai (bão lụt, sụt lở, động đất v.v), cháy rừng, các sự cố về môi trường nếu không được kiểm soát và xử lý kịp thời thường sẽ để lại những hậu quả hết sức nặng nề về kinh tế và môi trường sinh thái. Đối với các điểm có tiềm năng du lịch lớn cần thiết phải xây dựng các phương án phòng chống sự cố và khắc phục hậu quả để có thể giảm tối đa những tác động tiêu cực các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và thiên tai đến môi trường.

- Về đào tạo: Trong mọi trường hợp, yếu tố con người có vị trí quan trọng hàng đầu nếu không nói là quyết định. Chính vì vậy, để đảm bảo cho một chiến lược phát triển môi trường bền vững, cần thiết phải có chiến lược tuyên truyền giáo dục, nâng cao dân trí, tạo điều kiện để toàn dân biết và tham gia phát triển ngành kinh tế du lịch, đồng thời có chiến lược đào tạo bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ có trình độ và hiểu biết cao về các vấn đề môi trường, về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật về du lịch cũng như về các chính sách, quy định của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường. Điều này đòi hỏi việc tổ chức các khoá đào tạo môi trường với sự tham gia của các giảng viên, các nhà khoa học và quản lý môi trường, các chuyên gia có kinh nghiệm nước ngoài trong lĩnh vực môi trường.

147


Lâu dài, cần tiến tới việc tiêu chuẩn hoá trình độ và hiểu biết các vấn về môi trường đối với cán bộ quản lý các cấp.

- Về tuyên truyền quảng cáo và giáo dục dân trí: Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao dân trí trong việc bảo vệ môi trường. Bằng các hình thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng như đài báo, truyền hình, những hiểu biết về lợi ích của việc bảo vệ môi trường đối với đời sống sinh hoạt và sức khoẻ cộng đồng sẽ dần dần được nâng cao trong nhận thức của người dân. Chính những hành động cụ thể, tuy rất nhỏ nhưng có ý thức của người dân về môi trường sẽ là sự đảm bảo hết sức lớn đối với sự phát triển bền vững của môi trường.

- Về kinh tế: đây là giải pháp có tính xã hội cao và có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với dân cư ở khu vực có tiềm năng du lịch như vườn quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn Vân Longv.v... Việc nâng cao đời sống cộng đồng và tạo công ăn việc làm của người dân gắn với các hoạt động phát triển du lịch tại các điểm này sẽ là yếu tố đảm bảo để người dân tham gia tích cực vào việc bảo vệ tài nguyên du lịch, bảo vệ môi trường khu vực.

 Thúc đẩy liên kết giữa các địa phương, doanh nghiệp

Việc hình thành và phát triển điểm, tuyến, tour du lịch cần có sự liên kết giữa các địa phương, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên toàn tuyến trong tỉnh hoặc vùng. Có kế hoạch phối hợp với các địa phương trong vùng du lịch Bắc Bộ và vùng du lịch Bắc Trung Bộ… Hợp tác liên tỉnh, quốc gia và quốc tế đối với du lịch của Ninh Bình. Sự liên kết này được thực hiện thông qua nỗ lực quảng bá chung, nỗ lực cam kết về giữ gìn chất lượng phục vụ, liên kết trong đào tạo nhân viên và liên kết hỗ trợ nhau trong đăng ký gửi khách và nhận khách.

Sự liên kết này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chung thống nhất và phối hợp các nỗ lực chung cho toàn vùng. Một tổ chức liên kết dưới hình thức Hiệp hội tự nguyện cho các doanh nghiệp du lịch và cơ quan quản lý du lịch toàn vung là cần thiết, nhằm:

- Phát các khu du lịch, các khu vực vui chơi, giải trí gắn liền với các điểm tham quan.

- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có kĩ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu hợp tác phát triển.

- Phát triển, nâng cấp tuyến đường giao thông đáp ứng các nhu cầu phát triển hình thành các tuyến và các tour du lịch mới.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường xúc tiến đầu tư công nghệ trong lĩnh vực quản lí, tổ chức lữ hành.

148


4.3.4. Giải pháp liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức, quản lý và kinh doanh du lịch tỉnh Ninh Bình theo tiêu chí phát triển bền vững

Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh là một nhiệm vụ mà các cơ quan QLNN liên quan đều phải thực hiện theo chức năng, quyền hạn của mình. Thực hiện tốt công tác thanh kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động du lịch trên địa bàn sẽ giúp cho công tác QLNN của các cấp, ngành có biện pháp chỉ đạo, điều hành, giải quyết các vấn đề được kịp thời. Kiểm tra, kiểm soát các hoạt động du lịch, ở đây không phải khi có dấu hiệu vi phạm các quy định mới tiến hành kiểm tra, mà coi đây là công việc thường xuyên mà các cơ quan QLNN phải làm. Kiểm tra, kiểm soát một mặt phát hiện những sai phạm để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục; mặt khác cũng phát hiện được những tổ chức, cá nhân có nhiều cách làm hay, hoạt động có hiệu quả để khen thưởng kịp thời và nhân rộng nhân tố mới. Do vậy, cần khắc phục bằng được quan niệm những vấn đề có dấu hiệu vi phạm mới tổ chức thanh, kiểm tra. Công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động du lịch trong thời gian tới nên tập trung vào các vấn đề chính như sau:

- Về nội dung: Kiểm tra việc thực hiện các chính sách, các quy định của Nhà nước, của tỉnh có liên quan đến hoạt động du lịch. Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Kiểm tra tính thực thi trong việc xây dựng, ban hành và phối hợp tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du lịch của tỉnh.

- Về đối tượng: Kiểm tra các cơ quan QLNN liên quan đến hoạt động du lịch (các sở, ngành, UBND cấp huyện, xã); các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch.

- Về kế hoạch: Cùng với kế hoạch phát triển KT-XH hàng năm, cơ quan QLNN các cấp có liên quan phối hợp xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể.

4.3.5. Nhóm các giải pháp điều kiện

4.3.5.1. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển du lịch

Cũng như đối với mọi ngành kinh tế khác, vấn đề con người, trình độ nghiệp vụ là những vấn đề quan trọng có tính then chốt đối với sự phát triển của ngành du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế đòi hỏi có sự giao tiếp rộng và trực tiếp hơn đối với khách, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ, phong cách và thái độ giao tiếp của cán bộ, nhân viên trong ngành, đặc biệt là hướng dẫn viên, lễ tân... rất cao.

Mặc dù ngành du lịch Ninh Bình đã có nhiều nỗ lực trong việc đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp trong ngành và bồi dưỡng kiến thức du lịch cho nhân dân địa phương tham gia làm du lịch nhưng chất lượng đội ngũ lao động du

149


lịch còn rất yếu, cả về chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ các thị trường khách du lịch có khả năng chi trả cao, đặc biệt là thị trường khách quốc tế. Vấn đề cấp thiết đặt ra đối với du lịch Ninh Bình là phải có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, đủ tài, đủ tầm để đưa du lịch Ninh Bình từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.

Thứ nhất, xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực du lịch của tỉnh dài hạn 5 đến 10 năm trình Tỉnh ủy, UBND tỉnh phê duyệt làm cơ sở cho việc đưa ra các kế hoạch hàng năm của ngành trong việc bồi dưỡng nâng cao, đào tạo lại và tuyển dụng mới nhân lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch để thực hiện các công việc như: xúc tiến quảng bá du lịch, hợp tác quốc tế trong du lịch, tổ chức cán bộ và đào tạo, quản lý lữ hành, quản lý khách sạn, quản lý các khu, điểm du lịch, thanh tra du lịch, kế hoạch đầu tư, quy hoạch du lịch…

Thứ hai, Tăng cường liên kết, hợp tác và tạo môi trường thuận lợi trong hoạt động đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch. Phối hợp với Trường Đại học Hoa Lư xây dựng chương trình liên kết với các trường đại học, cao đẳng du lịch mở các chương trình đạo tạo trung cấp, cao đẳng nghề du lịch, tại chức, từ xa và sau đại học về quản trị kinh doanh du lịch, khách sạn, du lịch học… Song song với việc hỗ trợ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết với các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo, tuyển dụng nhân viên. Thì cần phải xã hội hóa hoạt động đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động đào tạo lao động nghề du lịch cung cấp cho các doanh nghiệp khách sạn trong toàn tỉnh.

Thứ ba, Triển khai ứng dụng các tiêu chuẩn nghề trong từng lĩnh vực. Tiêu chuẩn hóa một bước nguồn nhân lực du lịch ở từng lĩnh vực, ngành nghề theo yêu cầu thực tế của ngành, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế. Liên kết với Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU đào tạo cán bộ, nhân viên có trình độ cử nhân du lịch thành các đào tạo viên theo tiêu chuẩn nghề VTOS làm hạt nhân triển khai 13 tiêu chuẩn nghề du lịch cho các doanh nghiệp du lịch, khách sạn và nhà hàng trong tỉnh.

Thứ tư, Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực để kinh doanh sản phẩm du lịch chuyên biệt như du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, du lịch văn hóa…. Các loại hình du lịch chuyên biệt đòi hỏi người phục vụ có tri thức rộng và sâu về điểm đến, có tính chuyên nghiệp cao. Kiến thức, kỹ năng, thái độ và văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp trong các loại hình du lịch chuyên biệt có sự khác biệt căn bản so với các ngành nghề khác và khác biệt cả với các loại hình du lịch truyền thống.

Thứ năm, Tiếp tục bồi dưỡng kiến thức du lịch cộng đồng và nâng cao nhận thức về du lịch cho các tầng lớp nhân dân địa phương tại các khu, điểm du lịch bằng

150


nhiều hình thức khác nhau từ việc tổ chức các lớp tập huấn, các buổi tọa đàm, chương trình truyền thông trực tiếp qua hệ thống phát thanh 3 cấp của địa phương để tạo ra sự đồng thuận và nhận thức chung về hoạt động du lịch. Coi việc nâng cao nhận thức về phát triển du lịch một cách bền vững của các tầng lớp nhân dân địa phương, đặc biệt là nhân dân tại các khu, điểm du lịch là việc làm thường xuyên và liên tục của các cấp, các ngành trong toàn tỉnh.

* Về đào tạo cán bộ, công chức QLNN, cán bộ quản lý doanh nghiệp:

- Ngoài chính sách hiện hành của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng về đào tạo nguồn nhân lực nói chung, tỉnh Ninh Bình cần thiết phải xem xét sửa đổi bổ sung các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đã ban hành cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mà không trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chính sách phải trên cơ sở khuyến khích người đi học đúng ngành nghề theo công việc đang làm và đào tạo chuyên sâu, đào tạo ở các bậc học cao; cấp uỷ và chính quyền các cấp cần có quan điểm và nhận thức đúng khi cử cán bộ đi học ở các bậc học cao, đồng thời cần xác định rõ đội ngũ cán bộ này chính là lực lượng dự bị tạo nguồn cán bộ quản lý các cấp của tỉnh.

- Công tác đào tạo phải gắn với nhu cầu sử dụng, đòi hỏi phải có quy hoạch đào tạo thật sát với nhu cầu sử dụng; việc cử chọn cán bộ, công chức đi học phải đúng đối tượng, tránh tình trạng những người không làm được việc thì cứ đi học, người làm được việc thì không thể tách công việc để đi học.

- Thu hút và tạo nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực có chất lượng cao còn thiếu kể cả đội ngũ cán bộ QLNN, quản lý kinh doanh và kỹ thuật đối với ngành du lịch. Để tạo nguồn nhân lực về lĩnh vực du lịch nói riêng và các ngành khác nói chung nên tập trung vào các lĩnh vực sau:

+ Hàng năm sử dụng nguồn kinh phí nhất định từ ngân sách địa phương để hỗ trợ cho các em học sinh thi đậu vào các trường đại học với số điểm cao, nhưng hoàn cảnh kinh tế khó khăn (tài trợ trong suốt thời gian học tập); gia đình và sinh viên sẽ cam kết học tập đạt kết quả tốt và sau khi học xong về nhận công tác tại tỉnh.

+ Bố trí công việc hợp lý cho đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, có trình độ học vấn cao; có chính sách tạo việc làm ổn định và phụ cấp ngoài chính sách tiền lương hợp lý cho những cán bộ này, tránh tình trạng người có năng lực thực sự đóng góp nhiều cho sự phát triển cũng hưởng thu nhập như người không có năng lực trong công tác (thậm chí thu nhập ít hơn).

+ Cử đi đào tạo chính quy, đối với những cán bộ trẻ thực sự có năng lực, có điều kiện nghiên cứu chuyên sâu. Thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo gắn liền với sử dụng, bổ nhiệm cán bộ.

151


* Đào tạo nguồn nhân lực du lịch: Nhìn chung các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch hiện có trên địa bàn tỉnh có khả năng đáp ứng được nhu cầu đào tạo nghề cho đội ngũ lao động trong ngành du lịch của tỉnh và các địa phương lân cận. Các chương trình đào tạo nghề ngắn hạn rất thuận lợi cho những người đã có kinh nghiệm làm việc nhưng chưa qua đào tạo có điều kiện học tập giúp họ có nhiều cơ hội tham gia lao động trong các doanh nghiệp. Song hạn chế của các cơ sở đào tạo là đội ngũ giáo viên chưa tiếp cận được với công nghệ du lịch hiện đại của thế giới. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều địa phương, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch Ninh Bình cần tập trung vào những yêu cầu sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục nâng cao tầm nhận thức sự quan trọng, cấp thiết của chất lượng sản phẩm du lịch, công tác đào tạo nguồn nhân lực, áp dụng các quy trình quản lý nhất là trong giai đoạn du lịch Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh. Công tác này đòi hỏi phải có sự tham gia và phối hợp chặt chẽ của ngành du lịch, các cơ sở đào tạo, Hiệp hội Du lịch, doanh nghiệp du lịch.

Thứ hai, cần có sự thống kê các hình thức đào tạo tại chỗ đã và đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nhằm đưa ra những đánh giá chính xác, khoa học về hiệu quả của từng hình thức, kịp thời bổ sung, cập nhật những hình thức và kiến thức mới trong quá trình đào tạo tại chỗ.

Thứ ba, trong công tác đào tạo tại chỗ, bên cạnh nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp, cần có sự quan tâm hỗ trợ nhiều hơn nữa của các cơ quan QLNN, của Hiệp hội Du lịch trong công tác đào tạo, tái đào tạo. Đặc biệt là các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp du lịch tại Ninh Bình liên kết với Saigontourits trong việc tư vấn, giảng dạy, chuyển giao công nghệ điều hành, quản lý hiện đại.

Thứ tư, các cơ sở đào tạo và dạy nghề cần phối hợp với ngành du lịch và các cơ sở kinh doanh để nắm bắt nhu cầu và lĩnh vực đào tạo, ứng dụng công nghệ chuyên ngành để chuẩn bị giáo trình sát nhu cầu thực tế và phù hợp trình độ phát triển của du lịch thế giới.

Thứ năm, trong công tác đào tạo tại chỗ bên cạnh các kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng đến việc trang bị trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác quản lý, kinh doanh, quảng bá nhằm giảm chi phí, nâng cao tính tiện dụng, đạt đến hiệu quả cao nhất.

Thứ sáu, về đào tạo và giải quyết việc làm trước hết phải ưu tiên bảo đảm cho dân cư trong độ tuổi lao động tại các vùng bị thu hồi đất của các dự án nói chung và du lịch nói riêng có điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp phù hợp với độ tuổi, trình độ, công việc họ đang làm. Để giải quyết vấn đề này, hàng năm UBND cấp huyện và Sở Lao động-Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thống kê toàn bộ lực lượng lao

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 16/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí