Các Chính Sách Phát Triển Du Lịch Bền Vững Của Nhà Nước Và Địa Phương


tính chất KT - XH và là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Nhu cầu DL quyết định cấu trúc, tính chất, tốc độ phát triển, trình độ phát triển của ngành DL. Trong nhu cầu DL thì xu hướng nhu cầu DL hướng đến bảo vệ thiên nhiên, DL có trách nhiệm là một bộ phận cấu thành và đang có xu hướng ngày càng tăng trước những nhận thức ngày càng cao của nhân loại về PTBV.

Nhu cầu của khách DL rất đa dạng, phong phú và sẽ thay đổi theo tâm lý của du khách cũng như những biến động khác nhau của đời sống KT - XH, trong đó cung DL chỉ là một bộ phận rất nhỏ cấu thành. Các địa phương không thể áp đặt một cách chủ quan được đối với hành vi tiêu dùng của khách, nhưng có thể thông qua công tác thống kê và phân tích các yếu tố cung và cầu DL để dự báo được xu thế thay đổi trọng số và chất lượng nguồn khách trong thời gian thực hiện CLPTDL. Ở một góc độ nào đấy có thể nói rằng các địa phương hoàn toàn có khả năng định hướng cho nhu cầu của du khách.

Như vậy, việc xây dựng và triển khai thực hiện CLPTDLBV của địa phương cần căn cứ vào một cơ sở quan trọng là xu thế phát triển cả về số và chất lượng của nhu cầu DL nói chung và nhu cầu DLBV nói riêng để cung cấp được các dịch vụ DL phù hợp với yêu cầu của thị trường. Đồng thời, các nhà quản lý của địa phương có thể thông qua hoạch định CLPTDLBV để hướng nhu cầu tiêu dùng DL của khách đến mục tiêu PTBV bằng những chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển cụ thể.

1.4.1.2. Các chính sách phát triển du lịch bền vững của Nhà nước và địa phương

Mỗi một quốc gia đều có những quan điểm khác nhau đối với vấn đề PTDLBV, hầu hết các quốc gia đều nhận thức được tính tất yếu trong phát triển nói chung và DL nói riêng cần đảm bảo tính bền vững, tuy nhiên, mức độ của tầm quan trọng và điều kiện để thực hiện lại khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh phát triển cụ thể của quốc gia đó để có sự lựa chọn phương án thích hợp.

Quan điểm của quốc gia đó được thể hiện qua các chính sách của Nhà nước và địa phương về PTDLBV, đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến CLPTDLBV và đến sự PTBV của DL. Các chính sách của Nhà nước và địa phương có vai trò tạo lập môi trường vĩ mô, tạo cơ chế thuận lợi hay hạn chế sự PTBV của ngành DL.

Chính sách của Nhà nước và địa phương trước hết khẳng định vị trí của ngành DL trong cơ cấu nền kinh tế, những quốc gia đánh giá cao vai trò của ngành DL thường có chính sách phát triển ngành thành ngành kinh tế quan trọng, thậm chí mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế.

Ngày nay, khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh chóng bị cạn kiệt do sự khai thác quá mức của con người thì các lĩnh vực kinh tế khác đòi hỏi phải sử dụng tài nguyên như là yếu tố bắt buộc đầu vào của quá trình sản xuất trở nên kém


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.

ưu thế. DL với tính chất là ngành công nghiệp không khói đang trở thành một giải pháp có nhiều ưu thế trong chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia. Trong bối cảnh sự suy thoái môi trường đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu thì sự phát triển DL theo hướng bền vững là một lựa chọn đúng đắn. Singapore sau nhiều thập kỷ phát triển kinh tế dựa vào khai thác dầu khí thì hiện nay đã chuyển hướng ưu tiên vào lĩnh vực phát triển DL và đã khẳng định định được thành công vượt bậc trong sự lựa chọn này.

Chính sách của Nhà nước và địa phương có tác động tới sự PTBV của ngành DL qua chính sách đối với các lĩnh vực liên quan: Khả năng thu hút đầu tư cho DL, trong đó có thu hút đầu tư nước ngoài và từ các thành phần kinh tế để tạo ra sự phát triển năng động cho DL; chính sách hoàn thuế trong DL; chính sách ưu đãi về thuế, giải phóng mặt bằng để thúc đẩy các dự án DL; chính sách phát triển hoàn thiện các yếu tố CSHT tạo tiền đề cho DL phát triển; chính sách giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực DL; chính sách về xuất nhập cảnh; chính sách về môi trường; chính sách về bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa…

Chiến lược phát triển du lịch bền vững tỉnh Nghệ An đến năm 2020 - 9

Đối với PTDLBV còn đỏi hỏi phải có sự bền vững về nhu cầu của khách DL, và các chính sách phát triển KT - XH nói chung làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện, qua đó thúc đẩy nhu cầu DL của người dân. Sự phát triển năng động của nền kinh tế và chính sách mở cửa là điều kiện và động lực để nguồn khách quốc tế tới thăm quốc gia và địa phương đó.

Như vậy, các chính sách Nhà nước và địa phương sẽ ảnh hưởng đến sự PTDLBV và CLPTDLBV của địa phương thông qua các chính sách đối với ngành Du lịch và chính sách đối với những lĩnh vực liên quan đến PTDLBV. Trong đó các chính sách của Nhà nước thường tạo lập cơ chế cho sự PTDLBV nói chung trên phạm vi cả quốc gia, còn các chính sách của địa phương có tác dụng điều chỉnh trực tiếp đối với PTDLBV trong phạm vi của địa phương đó. Để thực sự thúc đẩy DL PTBV, các địa phương cần có sự vận dụng linh hoạt các chủ trương của quốc gia để có những chính sách cụ thể, năng động và hiệu quả đối với phát triển DL.

1.4.1.3. Sự cạnh tranh trong kinh doanh du lịch

Cạnh tranh thị trường là quy luật khách quan và tất yếu trong hoạt động kinh tế hàng hóa. Ngành DL cũng không tránh khỏi các quy luật cạnh tranh đó. Do nhu cầu cầu DL có tính thay thế cao, thị trường DL thường là thị trường bên bán, cung lớn hơn cầu cho nên sẽ có sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh DL. Sự cạnh tranh trong DL thể hiện chủ yếu ở ba mặt, đó là cạnh tranh về việc thu hút du khách, thu hút nhà môi giới DL và nâng cao thị phần. Bên cạnh những mặt tốt của sự cạnh tranh trong kinh doanh DL như góp phần đổi mới sản phẩm DL, góp phần quảng bá hình ảnh DL tại Việt Nam... thì sự cạnh tranh cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề bất cập như sự cạnh tranh thiếu lành mạnh dẫn đến ảnh hưởng xấu tới


các DN khác và làm suy thoái môi trường kinh doanh DL tại Việt Nam, gây ảnh hưởng tới hoạt động phát triển DLBV nói chung và CLPTDLBV nói riêng.

Để đảm bảo tính cạnh tranh trong kinh doanh DL, về phía Nhà nước và các cơ quan quản lý DL cấp tỉnh cần phải sớm hoàn thiện hành lang pháp lý ngành DL, cũng như thường xuyên thực hiện các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra các DN DL, đảm bảo hoạt động cạnh tranh DL được diễn ra công bằng, lành mạnh.

1.4.1.4. Lợi thế về tiềm năng tự nhiên cho phát triển du lịch bền vững

Những yếu tố về tiềm năng tự nhiên là một bộ phận quan trọng trong môi trường cho sự phát triển DL, là môi trường tự nhiên trong tổng thể môi trường DL bao gồm môi trường tự nhiên - kinh tế - xã hội, một bộ phận lớn trong số đó chính là TNDL tự nhiên.

Nhiều địa phương có điều kiện thuận lợi về tiềm năng tự nhiên dồi dào, đa dạng nên có thể có lợi thế để PTDLBV: Có thể phát triển nhiều loại hình DL khác nhau, trong đó có thể phát triển những loại hình DL có đặc tính bền vững cao, có thể cho phép khai thác DL với quy mô lớn mà vẫn đảm bảo sức chứa.

Những địa phương có điều kiện hạn chế hơn về tiềm năng tự nhiên vẫn có khả năng phát triển DL với quy mô lớn và vẫn đảm bảo tính cạnh tranh và PTBV, nếu có chiến lược phát triển đúng đắn. Singapore là một quốc gia rất hạn chế về không gian và tiềm năng tự nhiên, nhưng với CLPTDL khoa học, hợp lý thì hiện nay quốc gia này đang nổi lên như là một hình mẫu kinh điển về phát triển “công nghiệp du lịch Xanh” trên toàn thế giới.

Cũng cần phải nhìn nhận thêm rằng, đa số chúng ta đều cho rằng những tác động xâm phạm đến tự nhiên là không bền vững, nhưng thực tế diễn ra đã chứng minh điều ngược lại: Ở các quốc gia Bắc Âu, Tây Âu đã triển khai loại hình DL săn bắn (lợn rừng, hươu nai…) mà vẫn đảm bảo cảnh quan và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong quá trình PTDLBV thì vấn đề đặt ra ở đây là: Môi trường tự nhiên vừa là đối tượng khai thác, nhưng cũng là vừa đối tượng để bảo vệ của ngành DL, và là một mục tiêu quan trọng của sự PTBV. Sự phát triển DL phải đảm bảo không gây ra tác động xấu tới môi trường tự nhiên, phá vỡ cảnh quan mà ngược lại phải góp phần làm đẹp cảnh quan, bảo vệ môi trường tự nhiên. Do vậy, các yếu tố về địa lý và tiềm năng tự nhiên vừa là điểm xuất phát, là căn cứ quan trọng, đồng thời cũng là mục tiêu của công tác hoạch định và triển khai thực hiện CLPTDLBV của mỗi địa phương.

1.4.1.5. Lợi thế so sánh về vị trí địa lý đối với phát triển du lịch bền vững

Mỗi một địa phương đều có những điều kiện về địa lý và tiềm năng tự nhiên cho phát triển DL khác nhau, đây là nhân tố ảnh hưởng tới định hướng xây dựng và phát triển ngành DL.


Vị trí địa lý theo nghĩa chung nhất là tương quan vị trí của địa phương đó đối với các địa phương khác. Trong phát triển DL, việc đánh giá vị trí địa lý của một địa phương thường được xem xét dưới các góc độ sau:

+ Trong mối liên hệ với các địa phương là nguồn khách (thị trường gửi khách) của địa phương đó.

+ Với địa phương là trung tâm của vùng DL.

+ Với các TNDL nổi tiếng của các địa phương khác.

+ Với các tuyến giao thông (đường không - đặc biệt là với các cảng hàng không quốc tế, đường bộ, đường sắt và cả đường thủy) quan trọng.

+ Với các trung tâm DL của quốc gia, quốc tế (các quốc gia láng giềng).

Ngoài ra, khái niệm này còn có thể tiếp cận ở một góc độ rộng hơn, bao hàm cả tương quan vị trí các địa điểm có TNDL quan trọng, các đô thị, các tuyến giao thông trong phạm vi nội bộ địa phương đó.

Vị trí địa lý của địa phương là yếu tố để quy hoạch việc phát triển các điểm DL, khu DL, hình thành các tuyến DL địa phương, tuyến DL quốc gia và tuyến DL quốc tế. Vị trí địa lý của địa phương cũng cho phép địa phương khai thác lợi thế so sánh trong phát triển DL. Để đáp ứng yêu cầu PTBV, địa phương cần có chiến lược và quy hoạch khoa học để khai thác hợp lý các điều kiện về vị trí địa lý, tạo nên các tuyến DL có khả năng liên kết cao giữa các thị trường khách tiềm năng và các điểm DL hấp dẫn, để có sự đa dạng và hấp dẫn trong các sản phẩm DL, một trong những yếu tố đảm bảo thu hút khách lâu dài và sự PTBV cho DL.

1.4.1.6. Cơ sở hạ tầng xã hội nói chung và của địa phương nói riêng cho phát triển du lịch bền vững

CSHT là điều kiện hàng đầu ngang với TNDL trong phát triển DL. Điều kiện CSHT tốt sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc tiếp cận các điểm DL cũng như các dịch vụ phục vụ nhu cầu đa dạng của khách DL, tạo ấn tượng tốt đối với du khách. Sự hoàn thiện theo hướng đồng bộ và hiện đại của hệ thống CSHT chính là một trong các yếu tố đảm bảo cho PTBV của DL.

Hệ thống CSHT của địa phương là một bộ phận cấu thành hệ thống CSHT quốc gia, trong đó hầu hết các yếu tố của CSHT địa phương đều có ảnh hưởng tới sự phát triển DL trên địa bàn địa phương, trong khi đó chỉ có những yếu tố nào của hệ thống CSHT quốc gia liên quan đến địa phương đó mới có tác động đến hoạt động của DL trên địa bàn địa phương.

Chất lượng dịch vụ vận chuyển khách DL và hành lý của họ phụ thuộc vào hệ thống đường sá và phương tiện giao thông, nguồn nhân lực của ngành giao thông (đội ngũ người điều khiển phương tiện giao thông, đội ngũ nhân viên phục vụ trên phương tiện…), hệ thống văn bản pháp luật về giao thông, ý thức của người tham gia giao thông, mức chi phí cho dịch vụ vận chuyển…


Bên cạnh giao thông thì cần phải có sự tham gia của các yếu tố hạ tầng kỹ thuật khác bao gồm: Hệ thống thông tin và truyền thông là điều kiện cần thiết để đảm bảo thông tin cho khách DL, hệ thống điện, cấp và thoát nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt của khách.

Khái niệm CSHT ngày nay được tiếp cận theo một nghĩa rộng hơn hạ tầng kỹ thuật, bao gồm cả hạ tầng xã hội. Trong DL thì các yếu tố hạ tầng xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình PTBV bao gồm: Giáo dục - ảnh hưởng đến khả năng xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực DL có đủ năng lực và quy mô đáp ứng nhu cầu phát triển DL theo yêu cầu bền vững; tài chính - ảnh hưởng đến các dịch vụ thanh toán DL (giữa khách DL với các nhà cung cấp, giữa các DN DL với nhau); dịch vụ bảo hiểm DL - đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên trong mối quan hệ DL; tình hình an ninh để đảm bảo an toàn và trật tự cho các hoạt động DL diễn ra, tạo tâm lý an toàn tin tưởng lâu dài cho du khách.

Nếu điều kiện về CSHT tốt, đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện CLPTDLBV. Nếu điều kiện về CSHT hạn chế, CLPTDLBV cần phải có yêu cầu hoàn thiện hệ thống để đáp ứng nhu cầu phát triển DL.

Ngoài vấn đề là tiền đề để phát triển hoạt động DL nói chung, PTDLBV nói riêng thì CSHT còn có vai trò thúc đẩy hoạt động PTDLBV dưới góc độ: Hệ thống CSHT hoàn thiện cho phép phát triển DL ở những vùng sâu, vùng xa; cho phép giảm tải cho các điểm DL truyền thống, đồng thời khắc phục tính mùa vụ trong DL, phân phối lại thu nhập đến với cư dân địa phương. Đây là những cơ sở quan trọng cho PTBV trong DL. Mặt khác, sự phát triển của DL cũng đòi hỏi phải có sự hoàn thiện CSHT theo yêu cầu của PTDLBV.

Qua những phân tích trên cho thấy CSHT và CLPTDLBV có mối quan hệ mật thiết, và hệ thống CSHT luôn là một căn cứ quan trọng cho công tác xây dựng và thực hiện CLPTDLBV của địa phương.

1.4.1.7. Nhận thức của cộng đồng địa phương về phát triển du lịch bền vững

Đối với PTDLBV, nhận thức của cộng đồng địa phương là yếu tố quan trọng.

Cộng đồng địa phương là một nhân tố tham gia vào phát triển DL với nhiều vai trò: Là nguồn nhân lực tham gia vào việc tạo ra các dịch vụ DL; sinh hoạt của người dân với các phong tục tập quán và các sinh hoạt văn hóa khác là nguồn TNDL - các di sản văn hóa; cộng đồng địa phương vừa là người bảo tồn, nuôi dưỡng đồng thời phát huy các giá trị văn hóa đó vào việc phục vụ DL.

Sự PTDLBV cũng mang lại cơ hội cải thiện thu nhập cho người dân địa phương bằng chính nguồn thu từ DL, thay vì họ phải hủy hoại các nguồn tài nguyên tự nhiên và môi trường để kiếm sống. Sự PTDLBV cũng mang đến cơ hội cải thiện hệ thống CSHT, giúp thay đổi bộ mặt KT - XH của địa phương, thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác phát triển. Sự PTBV trong DL cũng còn có tác dụng giữ gìn, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội của khu vực phát triển dự án DL, một lợi


ích lâu dài cho cộng đồng. Trong thực tế một mục tiêu quan trọng của PTDLBV là mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương, và sự PTBV chỉ có đạt được ý nghĩa đầy đủ khi được cộng đồng địa phương tham gia và ủng hộ.

Mặc dù mang lại những lợi ích thiết thực như vậy nhưng nhìn chung người dân thường không nhìn nhận đầy đủ các lợi ích đó, mặt khác việc PTDLBV thường không thể mang lại lợi ích ngay lập tức cho người dân mà phải qua một quá trình phát triển nhất định, và trong thời gian chờ đợi đó để đảm bảo nguồn thu nhập buộc họ phải khai thác tài nguyên, ảnh hưởng tới môi trường. Đây là một bài toán đầy mâu thuẫn mà khi xây dựng CLPTDLBV buộc các nhà quản lý phải tìm ra lời giải.

Nhận thức của cộng đồng địa phương về PTDLBV phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ dân trí, hiểu biết về PTBV nói chung và PTDLBV nói riêng, sự tuyên truyền giáo dục của chính quyền và ngành DL, và điều quan trọng nhất là họ chỉ tham gia tích cực, chủ động vào PTDLBV khi họ nhận được lợi ích từ đó.

Nếu nhận thức của cộng đồng về DLBV cao, việc xây dựng và quá trình triển khai thực hiện CLPTDLBV sẽ thuận lợi và ngược lại, sẽ là khó khăn cho địa phương trong sự nghiệp PTDLBV.

1.4.1.8. Môi trường pháp luật của Nhà nước và địa phương về phát triển du lịch bền vững

Đây là nhân tố tạo lập hành lang pháp lý cho sự PTDLBV của địa phương, bao gồm các yếu tố: Hệ thống các văn bản pháp quy; các cơ quan thi hành pháp luật; hiệu quả của công tác thực thi pháp luật.

Việc xây dựng và thực hiện CLPTDLBV phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Một hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ và có tác dụng tạo lập môi trường thuận lợi cho PTDLBV bao gồm: Các văn bản luật điều chỉnh lĩnh vực DL (Luật Du lịch), các văn bản luật về các lĩnh vực liên quan (Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Di sản…), các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư, Quyết định). Ngoài góc độ chiều rộng, phản ánh đầy đủ các khía cạnh liên quan đến DL thì còn phải đánh giá chiều sâu, chất lượng của các văn bản đó. Trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước thì các địa phương có thể có các văn bản quy định cụ thể phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương và mỗi điểm DL. Môi trường pháp luật phải rõ ràng, nghiêm minh, bám sát đầy đủ các nội dung của PTDLBV, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế thì mới thúc đẩy hoạt động kinh doanh DL phát triển. Bên cạnh đó, để đảm bảo yêu cầu PTBV cần có các chế tài giám sát sự tác động của DL tới môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội; có các quy định về trách nhiệm của các DN đối với xã hội.


Các văn bản pháp quy là công cụ để địa phương và các cơ quan thi hành pháp luật sử dụng để điều chỉnh hoạt động DL, đảm bảo tính hiệu quả cho công tác thực thi pháp luật, hướng hoạt động DL đến mục tiêu PTBV.

1.4.2. Nhóm nhân tố chủ quan

1.4.2.1. Nhận thức về vai trò và tầm quan trọng xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững của các cấp lãnh đạo địa phương

Sự phát triển của DL ở Việt Nam thời gian qua đã để lại nhiều bài học lớn: sự thiếu hiểu biết của các ngành các cấp dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan, ganh đua thiếu cơ sở, TNDL bị khai thác bừa bãi, phá hỏng cảnh quan và môi trường, chất lượng sản phẩm DL thấp, giá cả dịch vụ DL không được quản lý, năng lực cạnh tranh của ngành Du lịch yếu kém ngay cả so với các quốc gia trong khu vực, hình ảnh DL của đất nước trên trường quốc tế trở nên mờ nhạt… PTDLBV đòi hỏi phải có một chiến lược khoa học, phù hợp với bối cảnh cụ thể của địa phương mới đem lại hiệu quả lâu dài, tránh tình trạng tự phát dẫn đến những tác hại trên nhiều mặt đối với nền KT-XH.

Việc PTDLBV có những yêu cầu cao hơn đối với phát triển hoạt động DL thông thường nên yêu cầu nhận thức về PTDLBV của các cấp lãnh đạo địa phương là một điều kiện tiên quyết.

Các cấp lãnh đạo ở địa phương đối với hoạt động DL bao gồm lãnh đạo chính quyền địa phương các cấp, cơ quan quản lý Nhà nước về DL của địa phương. Các nhà lãnh đạo có vai trò đối với CLPTDLBV của địa phương trên các góc độ: Lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ đạo, điều hành ngành DL xây dựng CLPTDLBV; lãnh đạo ngành DL chỉ đạo và tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng CLPTDLBV; lãnh đạo ngành DL chỉ đạo và tham gia trực tiếp vào công tác triển khai thực hiện CLPTDLBV; lãnh đạo địa phương và lãnh đạo ngành DL giám sát, điều chỉnh quá trình thực hiện CLPTDLBV.

Như vậy, nhận thức của các cấp lãnh đạo địa phương về vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng CLPTDLBV là nhân tố quyết định đến sự ra đời và chất lượng của CLPTDLBV cho địa phương.

1.4.2.2. Năng lực về tài chính cho phát triển du lịch bền vững của tỉnh

Năng lực tài chính cho PTDLBV ở đây thể hiện qua các chủ trương về đầu tư cho PTDLBV của địa phương. Đầu tư cho phát triển DL và PTDLBV bao gồm các hướng cơ bản như sau:

- Đầu tư cho hoàn thiện hệ thống CSHT, đặc biệt là các khu vực ưu tiên phát triển DL.

- Đầu tư cho hoàn thiện CSVCKT DL.

- Đầu tư cho công tác xây dựng CLPTDLBV.

- Đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường.

- Đầu tư cho phục hồi, phát triển các giá trị văn hóa truyền thống.


- Đầu tư cho công tác tuyên truyền quảng bá DL.

- Đầu tư các dự án trọng điểm để tạo trọng tâm và bước đột phá cho PTDL.

Trong khi nguồn vốn ngân sách thường thiếu, cơ chế chưa linh hoạt và kịp thời thì cần có cơ chế để huy động các nguồn vốn khác ngoài khu vực quốc doanh và ngân sách để tạo ra nguồn vốn đủ mạnh cho phát triển DL.

Để PTDLBV đòi hỏi đầu tư phải đảm bảo mức vốn cần thiết và theo định hướng PTBV. CLPTDLBV cần phải được xây dựng trên căn cứ hướng đầu tư của địa phương cho PTDLBV. Nếu mức đầu tư ít thì chỉ có thể triển khai PTDLBV ở một mức độ rất hạn chế theo quy mô và chiều sâu, do đó CLPTDLBV sẽ có nhiều hạn chế và chưa thể phát huy hiệu quả. Mức đầu tư của địa phương cho công tác xây dựng chiến lược thấp cũng dẫn đến tình trạng kém chất lượng của CLPTDLBV.

1.4.2.3. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý trong xây dựng và chỉ đạo, triển khai thực hiện chiến lược phát triển DL

Đội ngũ cán bộ quản lý xây dựng và chỉ đạo, triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch DL của địa phương bao gồm:

- Lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ đạo, điều hành ngành DL xây dựng CLPTDLBV;

- Lãnh đạo ngành DL chỉ đạo và tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng CLPTDLBV;

- Lãnh đạo ngành DL chỉ đạo và tham gia trực tiếp vào công tác triển khai thực hiện CLPTDLBV;

- Lãnh đạo địa phương và lãnh đạo ngành DL giám sát, điều chỉnh quá trình thực hiện CLPTDLBV.

Trong bất cứ hoạt động nào trong các hoạt động nói trên, đều cần đến trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý. Trình độ hiểu biết của cán bộ quản lý đối với CLPTDLBV bao gồm các yêu cầu:

- Yêu cầu trình độ kiến thức;

- Yêu cầu hiểu biết về tình hình KT - XH và các điều kiện phát triển DL của địa phương;

- Yêu cầu về kiến thức quản lý DL.

- Yêu cầu hiểu biết về DL địa phương và hiểu biết về PTDLBV;

- Yêu cầu hiểu biết CLPTDLBV của địa phương;

- Yêu cầu về kinh nghiệm quản lý.

Để trang bị được những yêu cầu về kiến thức và kinh nghiệm rộng và sâu trên các lĩnh vực nói trên là một yêu cầu khá cao, đây cũng là một đòi hỏi khó khăn cho người làm công tác quản lý DL.

Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ảnh hưởng tới chất lượng của CLPTDLBV trên nhiều mặt: Công tác xây dựng chiến lược, triển khai thực hiện

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/03/2023