Về Vấn Đề “Gia Long Phục Quốc” (Khôi Phục Cơ Đồ)

135

thành từ dân chúng. Thôn xóm miền Hậu Giang đã lưu truyền câu ca: “Ngồi buồn nhớ chúa ta xưa, Long Xuyên bạn cũ bao giờ cho nguôi” được cho là chỉ việc “Tân Chính vương và Thái Thượng vương bị quân Tây Sơn giết ở Long Xuyên” [171,287]. Có thể do không có điều kiện nào để dân chúng nơi đây hiểu được chính khí của đội quân Tây Sơn, trong khi họ vốn đã dành những tình cảm chân thành cho vị chúa của mình trong bước gian nan. Bởi đối với người Nam Bộ, những lưu dân tạo lập nên thôn xóm từ những gian lao, hiểm nạn, họ sẵn lòng cưu mang người khác, nhất là với những ai gặp lúc nguy nan nếu đồng cảm thì luôn hết lòng trợ giúp. Cuộc chiến giữa nhà Nguyễn với Tây Sơn đối với người dân nếu chưa thể phân định rõ ranh giới chính nghĩa hay phi nghĩa thì việc giúp “vua” buổi nguy nan là nghĩa cử nên làm. Đây là một mặt tính cách hào hiệp của người Nam Bộ nói riêng.

Trong các truyện kể, hình ảnh con người trợ giúp có dấu ấn rõ nét, họ có thể là những bá hộ hoặc kẻ ăn mày. Nếu các nhà bình luận lịch sử đã coi sự sống sót của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến là một may mắn kỳ lạ của số phậnthì sự may mắn đó có một phần nguyên nhân từ những chuyện ly kỳnhư thế đã xảy ra. Như sự trợ giúp kịp thời và hiệu quả của xóm ăn mày không phải là ngẫu nhiên của cách hành xử mà là thái độ ủng hộ đối với vị chúa đang sa cơ (Về tên gọi Tân Lộc Phường).

Thái độ tình cảm của dân chúng có cơ sở thực tế từ tình hình chính trị xã hội. Có ý kiến nhận xét: “Nếu Nguyễn Ánh không trở thành một vị vua đầu tiên của triều Nguyễn thì sự kiện ông ở Phú Quốc sẽ ít người nhắc đến. Nhưng vì sau đó, Nguyễn Ánh đã trở thành vua Gia Long và triều Nguyễn đã dành cho Phú Quốc những chính sách ưu đãi nên dấu ấn của Nguyễn Ánh khá đậm đà trên đảo và có những truyền thuyết về “chân mệnh thiên tử” này” [84,124]. Hay khi nói về thái độ rất mực tôn kính của người dân Kiên Giang đối với người anh hùng Nguyễn Trung Trực, nhà nghiên cứu Sơn Nam cũng đã liên hệ với Nguyễn Ánh: “Bởi Rạch Giá là đất mới chưa sản xuất được ông quan văn, quan võ nào nổi danh hồi thời “đàng cựu”. Còn có một lý do khác về tâm lý, cũng theo Sơn Nam: “Vua Gia Long là vua đầu tiên và là ông vua cuối cùng đã đặt chân đến rừng U Minh. Những chuyện bôn ba tẩu quốc của ông khiến cho người dân cảm thấy đất Rạch Giá dính liền với “sơn hà xã tắc..” [122,94].

Như vậy, tâm lý trọng thị bậc vua chúa như một nếp nghĩ quen thuộc của người dân nơi đây. Hơn nữa, đây lại là ông vua đầu tiên của Nam Bộ. Khi những lưu dân trải qua biết bao bao gian khổ tạo lập nên thôn ấp nhưng mới là những tổ chức tự quản, phải đến khi có lệnh chúa Nguyễn thiết lập chính quyền, chia lập bộ đinh, bộ điền, thì người dân mới thật sự “có nước”, một niềm hân hoan và trân trọng. Đồng thời, với tính cách trọng nghĩa, người Nam Bộ xem đây là “tấc đất, ngọn rau ơn chúa” thấy có trách

136

nhiệm phải đền bồi. Sách Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca đã nêu đúng thái độ tinh thần này: “Thuở Cao hoàng đế Gia Long, Lắm khi trú tất ruỗi dong lánh nàn. Sử xanh còn chép rõ ràng, Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm“… [153,90].

Hay nói như Sơn Nam về một thực tế: “Trận thủy chiến Nguyễn Huệ đánh tan mấy vạn binh Xiêm thuộc phe chúa Nguyễn ở Tiền Giang dường như chẳng được ca ngợi cho lắm đối với người miền Nam, mặc dù đó là chiến công của dân tộc. Phải chăng vì người miền Nam “ăn cơm chúa” nên muốn giữ lòng trung hậu ?” [127,338].

Liên hệ truyện dân gian miền Trung, sự trợ giúp của người dân cũng do xem trọng ân nghĩa với vua: hai làng Dương Thịnh và Vinh Quang vốn mang nặng ân tình với đời chúa trước, ít cảm tình với nghĩa quân Tây Sơn; hay vị hào trưởng mang ân huệ chúa Nguyễn nên đã che giấu, giúp đỡ (Tục hát Châu phê ở hai thôn Dương Thiện và Vinh Quang).

Ở một khía cạnh khác, công cuộc xác lập cương thổ, an dân ở vùng đất mới của các chúa Nguyễn Đàng Trong sớm đạt hiệu quả, tạo cơ sở cho mối liên hệ dân - nước lâu bền (còn nhờ ở người thực hiện việc kinh lý, nhân dân ghi nhớ về Nguyễn Hữu Cảnh với công đức, uy danh rộng lớn khắp vùng). Đây cũng là điều Tây Sơn thiếu vắng. Dấu ấn của nhà Tây Sơn ở vùng đất này chủ yếu chỉ là những lần tiến đánh, truy đuổi, với khổ nạn can qua mà người dân phải gánh chịu. Do đó, trong cuộc đối đầu lịch sử giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn, ý thức về “chân mệnh thiên tử” định theo khuôn khổ giáo dục chung thì hầu hết người dân đã sớm dành cho chúa Nguyễn. Nhất là tầng lớp địa chủ, phú nông, với những lợi ích thiết thân, họ đã hết lòng ủng hộ thế lực này. Vì vậy, bước đường bôn tẩu lẩn tránh Tây Sơn của chúa Nguyễn đã được sự giúp đỡ, hậu thuẫn của người dân.

Từ gốc rễ đã sinh ra nhiều cành lá, những câu chuyện về Nguyễn Ánh mở rộng trong dân chúng, ngày càng dày thêm trong thời gian cuộc giao tranh và về sau.

4.3.2. Ý nghĩa văn hóa

Đến nay, đứng trên quan điểm đổi mới, đánh giá về những thành tựu đóng góp to lớn nhất của nhà Nguyễn, các nhà nghiên cứu lịch sử đã nhận định: “nhà Nguyễn đã để lại một di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ bắc chí nam”, “Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hoá đồ sộ” [102,11].

Xét tổng thể hiện tượng truyện, về giá trị văn hóa, đây cũng chính là một phần văn hoá phi vật thể đã được xây dựng, kiến tạo của di sản văn hóa dân gian Nam Bộ.

Nhóm truyền thuyết ghi nhận hành trình trốn lánh Tây Sơn của Nguyễn Ánh, với những hành trạng ly kỳ trong một không gian rộng lớn suốt từ Gia Định đến những nơi tận cùng xứ sở phương Nam. Điều này thể hiện dấu chân Nguyễn Ánh đã in hầu

137

khắp Nam Bộ hoặc cách nhìn nhận của người dân Nam Bộ đối với Nguyễn Ánh. Các truyện kể được ghi chép một phần trong sử sách triều Nguyễn và được truyền tụng, trong đó có một phần có mối liên hệ gắn kết với các chứng tích văn hóa bao gồm địa danh, di tích thờ cúng, tín ngưỡng, lễ hội dân gian... trên nhiều địa phương Nam Bộ, họp thành một không gian văn hóa của nhóm truyện. Như về địa danh, có Hà Tiên, Phú Quốc với Chùa Hang, Mũi Công chúa Ngọc Du...; Sóc Trăng với Sông Mỹ Thanh, Bãi Xàu...; Bạc Liêu, Cà Mau với Ấp Giá Ngự, Cạnh Đền...; An Giang với Núi Cấm, Búng Bình Thiên...; Sa Đéc, Vĩnh Long với Long Hưng và sông Long Hồ, Kênh Bà Viên; riêng Giếng Ngự thì có nhiều nơi (Vũng Tàu, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau...); về di tích, tín ngưỡng, lễ hội, có Định Tường, Kiên Giang với Sắc tứ chùa Long Nguyên, Sắc tứ Tam Bảo tự…; hay Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh với Lăng Ông, Lăng Ông Nam Hải, Lễ hội cúng biển Mỹ Long...

Tuy nhiên, sự gắn kết mang ý nghĩa hư cấu, thêu dệt là chủ yếu, bởi không ít địa điểm, sự việc không bao hàm tính chất xác thực. Như về các dấu tích liên quan Nguyễn Ánh ở Hà Tiên, Phú Quốc, đã có ý kiến nhận định: “Phú Quốc là một trong những nơi Gia Long tá túc trong thời kỳ bôn tẩu vì sự truy kích của Tây Sơn. Chính vì vậy mà ở Phú Quốc - giống như Hà Tiên có một số di tích được gắn với Nguyễn Ánh” [208,377]. Hay về dấu tích thờ tự ở Côn Đảo được cho là liên quan đến nhân vật bà Phi Yến (Hòn Bà), nhà nghiên cứu Đinh Văn Hạnh đã đưa ra sự kiến giải: “Lịch sử tồn tại 113 năm của nhà tù thực dân đã phủ che lớp văn hóa dân gian hiếm hoi trên đảo để viết nên những câu chuyện khác”, theo đó, “Câu chuyện về bà Phi Yến là một truyền thuyết lịch sử, nhưng lại quá xa lạ với sự thật lịch sử…” [53]. Hoặc cùng là Lăng Ông Nam Hải nhưng khác với Gò Công, Bến Tre, Lăng (hay Dinh) Ông Nam Hải ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Phú Quốc thì gắn với câu chuyện tương truyền thuần chất về cá Ông... Điều này cho thấy xu hướng đưa sự kiện về nhân vật hơn là sự giải thích gốc tích thật.

4.3.3. Về vấn đề “Gia Long phục quốc” (khôi phục cơ đồ)

Truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ tồn tại trong những hình thức văn bản khác nhau có những tác động, sự ảnh hưởng lâu dài. Dư âm của nó không chỉ thể hiện thái độ, cách đánh giá của người dân về sự kiện lịch sử cụ thể mà còn trở thành dấu ấn sự kiện tác động vào tư tưởng, nhận thức như một ý thức chính trị. Đến giai đoạn về sau, khi có điều kiện nó đã tái hiện lại như một phần của lịch sử, nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm người đương thời đối với “sơn hà xã tắc”. Điều này đã được thể hiện với bộ phận văn học quốc ngữ Nam Kỳ giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại hóa với mảng tiểu thuyết lịch sử. Nói như nhận xét của Cao Tự Thanh: “Ý thức chính trị này (xem họ Nguyễn là vương triều chính thống – chúng tôi chú thích) sẽ

138

được tái tạo qua các tiểu thuyết dã sử như Gia Long tẩu quốc, Gia Long phục quốc, mang hàm ý chống Pháp xuất hiện trong văn học viết bằng chữ quốc ngữ Latinh ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX” [194,145].

Về thể loại, tiểu thuyết dã sử lấy sự kiện lịch sử làm khung cảnh, nhân vật là người có thật trong lịch sử hoặc được hư cấu thêm nhưng phải phù hợp với sự thật lịch sử, ngoài ra, có thể hư cấu ở các chi tiết thuộc về tình cảm, tâm lý (như Việt Nam anh kiệt của Phạm Minh Kiên, xb 1926). Tính chất của nó có điểm khác biệt với ngoại sử, chỉ lấy không gian và thời gian lịch sử dựa vào chính sử hoặc ngay trong điều kiện lịch sử xã hội hiện tại, những sự kiện và nhân vật cụ thề chủ yếu là hư cấu (như Phan yên ngoại sử của Trương Duy Toản, xb 1910).

Việc viết tiểu thuyết lịch sử nói chung bấy giờ mục đích là làm cho “quốc sử ta càng ngày càng được phổ thông”. Chính Tân Dân Tử, nhà viết tiểu thuyết lịch sử tiên phong của văn học Việt Nam khi đề cao vai trò tiểu thuyết đã nêu quan điểm một cách trực tiếp: “Vậy nếu muốn cho lịch sử nước nhà phổ thông thì chẳng chi hay hơn là dùng tiểu thuyết làm mai nhơn để dẫn dắt quốc dân vào con đường lịch, đó là một phương pháp rất anh linh, và một phương pháp rất công hiệu”; cũng theo tác giả, “tiểu thuyết về lịch sử thì cần nhứt cho quốc dân ta trong lúc này hơn hết” [9,76]. Hay như thái độ của Trương Duy Toản trước đó về những “đề xưa chuyện cũ” (của truyện Tàu): “Phương chi mình lại ôm cả đống ấy về Nam Bộ mà diễn dịch ra làm của mình” [9.76].

Theo đó, Hoàng tử Cảnh như tây nói về công cuộc khôi phục cơ nghiệp, cũng như sự kiện thâu phục cơ nghiệp của Gia Long phục quốc được cho là mang ý nghĩa sâu xa hơn việc phục hồi cơ nghiệp tổ tiên nhà Nguyễn, có mối liên hệ với thời cuộc trước mắt (với nhân vật Quang Trung và Gia Long, tác giả đều gọi là “đại anh hùng” của Việt Nam). Nhân vật Quốc mẫu có tiếng nói trong những ghi chép chính sử (sự cảm thán, lời khen ngợi chúa thánh), có khả năng là phát ngôn của các sử gia, đến đây được nhà văn tiếp tục đưa vào thành nhân vật văn học. Trong Gia Long phục quốc, ý kiến của nhân vật nói đến cái hại của việc cầu viện Pháp thực tế là phát ngôn của tác giả tiểu thuyết, thể hiện sự nhận thức đối với sự kiện lịch sử quá khứ đồng thời là thái độ đối với nhà cai trị thực dân đương thời (cũng như trường hợp Phan Yên ngoại sử, các nhà nghiên cứu đã nói đến sự bóng gió của việc “chống Tây Sơn”, hay Tam Yên di hận (xb 1929) của Nguyễn Văn Vinh, với những tên gọi theo lối mô phỏng, ám chỉ “việc thực dân Pháp cướp nước”).

Như vậy, nhóm truyện dân gian về Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ trong sự vận

động, phát triển đã được mở rộng ý nghĩa, trong mối liên hệ với lĩnh vực sáng tác của

139

văn chương thành văn đầu thế kỷ XX trong tiến trình phát triển của văn hoá, lịch sử Nam Bộ.

Tiểu kết chương 4

Qua trình bày, chúng tôi khái quát nội dung đã thực hiện ở chương 4 như sau:

1. Luận án khảo sát, miêu tả, phân tích, đánh giá hệ thống truyện, đi từ bước cơ sở khái quát diện mạo thể loại, cơ cấu văn bản tư liệu... Chúng tôi chú ý nhận diện yếu tố sự thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau trong hệ thống thể loại của truyền thuyết và giai thoại biểu hiện ở nhóm truyện.

2. Luận án hướng đến nhiệm vụ xác định diện mạo đặc thù của hệ thống truyện, thông qua việc tập trung miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo và công thức biểu đạt, đồng thời, khái quát về giá trị nội dung. Với quy mô của hệ thống truyện, đặt trong sự so sánh, đối chiếu với nhóm truyện cùng loại hoặc gần gũi ở các vùng miền khác, luận án nhằm khám phá những nét đặc trưng riêng của hệ thống truyền thuyết về nhân vật Nguyễn Ánh ở vùng Nam Bộ.

3. Luận án cũng nói đến dấu ấn tồn tại của nhóm truyện thể hiện trong văn bản văn học của thời kỳ sau. Đây chính là biểu hiện của sự tương tác giữa văn học dân gian và văn học viết, được coi là quy luật chung của mọi nền văn học.

140

CHƯƠNG 5

GIAI THOẠI VỀ NHỮNG DANH NHÂN, DANH SĨ NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX TRỞ VỀ TRƯỚC

5.1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG TRUYỆN

“Danh nhân”, theo Đào Duy Anh, là người có tiếng (tiếng tốt, tiếng thơm, tài giỏi) được nhiều người biết (homme célèbre) [6,196]. Trên tiêu chí thành tích cá nhân và thái độ của cộng đồng Sách Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hóa truyền thống cũng đưa ra định nghĩa: “Danh nhân là những người có thành tích xuất sắc trong hoạt động thực tiễn xã hội, được cả cộng đồng xã hội thừa nhận và dành cho những hình thức tôn vinh trọng thể nhằm tưởng lệ công lao và nêu gương cho thế hệ sau” [44,32].

Nhìn chung, danh nhân là những con người đã định hình tên tuổi với những thành tựu, sự cống hiến ở những lĩnh vực chuyên biệt, chủ yếu là lĩnh vực văn hóa, khoa học... với vai trò khai phóng hoặc tiếp nối sự phát triển văn hóa, khoa học... Danh nhân là nhân vật lịch sử tích cực, có đóng góp lớn trong tiến trình lịch sử, có sức ảnh hưởng lâu dài, có cống hiến cho quê hương, dân tộc, nhân loại.

Liên quan đến khái niệm “danh nhân” là khái niệm “danh sĩ”. “Danh sĩ” dùng chỉ riêng những nhà khoa bảng, trí thức, có những thành tựu trên địa hạt văn chương, học thuật. Trải suốt tiến trình lịch sử, các danh sĩ là một phần tinh hoa của giống nòi, làm nên nền văn hiến của dân tộc.

Nam Bộ là nơi sản sinh nhiều danh nhân, danh sĩ nổi tiếng, những người có công mở mang trong các mặt chính trị, văn hóa, kinh tế vùng đất “Đàng Trong” từ lúc hình thành vào thế kỷ XVII cho đến khi thực dân Pháp đặt ách thống trị. Nhiều nhân vật được tôn xưng là đức thượng công, vị đại hiền, đại nho, nhà bác học…, được các học giả, nhà nghiên cứu trước nay trân trọng đưa vào hàng “Danh nhân Nam kỳ”, “Danh sĩ miền Nam”, “Danh nhân văn hóa miền Nam”… Đây là “các nhà nho, nhà trí thức có những công lao và cống hiến, như đem đến ánh sáng văn hoá và giáo dục, tạo nên những sáng tác văn học, công trình nghiên cứu kinh tế, lịch sử, địa dư, xã hội... hoặc dùng ngòi bút chiến đấu trực diện với thực dân và tay sai...” [8,3]. Xoay quanh các nhân vật nổi tiếng, đã có nhiều câu chuyện được kể và truyền tụng.

Giai thoại về những danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước là nhóm truyện kể về cuộc đời, hành trạng của các nhân vật lịch sử là những danh tướng, nhà nho, nhà trí thức… Nam Bộ nổi tiếng, đã có cống hiến trên những lĩnh vực nhất định để tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần cho đời sống xã hội, tập trung ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.

141

Các truyện kể đều ngắn gọn, kể về một sự kiện có ý nghĩa đơn nhất trong một tình huống hay một thời điểm, giai đoạn nhất định trong cuộc đời nhân vật. Yếu tố lời thoại xuất hiện khá phổ biến (26/ 40 truyện). Nhân vật là những con người cụ thể, có một vai trò lịch sử nhất định, câu chuyện về họ thu hút sự chú ý của công chúng. Trong đó, những sự kiện liên quan đến hành trạng của nhân vật đã được khám phá, ghi nhận từ thực tế hoặc chỉ là sự thêu dệt, xuất phát từ tâm lý tôn phục. Với các nhân vật danh nhân, danh sĩ Nam Bộ, đây là kiểu nhân vật Người trí thức của giai thoại.

Hệ thống truyện bao gồm ba tiểu loại: giai thoại lịch sử (Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu, Những cuộc gặp giữa Pôngsông và cụ Đồ Chiểu…”), giai thoại văn học (Xóm Bà Đồ, Tài ứng đối của Phan Văn Trị) và giai thoại folklore (Về địa danh Bình Thủy - Long Tuyền, Kép Hứa Văn hát bội…). Giữa các tiểu loại có mối quan hệ qua lại, đan xen.

Thực tế, xét đặc điểm loại nhân vật, giai thoại lịch sử không chỉ bao gồm giai thoại về danh nhân lịch sử (về quân sự), các danh nhân văn hóa cũng có giai thoại loại này (khi các nhân vật hoạt động văn hóa tham gia việc chính sự, như gặp gỡ lãnh tụ khởi nghĩa hay đối thoại với nhà cầm quyền thực dân…). Như truyện Trương Định gặp cụ Đồ Chiểu đề cập đến mối quan hệ giữa danh sĩ yêu nước và các lãnh tụ khởi nghĩa trong hoàn cảnh bấy giờ. Mặt khác, giai thoại văn học cũng có thể hàm chứa nội dung lịch sử, không đơn thuần là chuyện trong giới hoặc thuộc lãnh địa “làng văn”. Bởi với trường hợp bản thân nhân vật là người sáng tạo văn chương nhưng cũng là danh sĩ hoạt động yêu nước và thơ văn chứa đựng nội dung yêu nước, trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén của người trí thức chống giặc thì truyện kể về nhân vật đã bước sang “ranh giới” giai thoại lịch sử. Hiện thực đấu tranh chống kẻ thù xâm lược và tay sai là cơ sở cho sự hình thành và phát triển thể loại giai thoại lịch sử liên quan lĩnh vực văn hoá. Như truyện Thà ẩn non cao với tình huống đối đáp thơ văn hay Thơ ứng khẩu của Phan Văn Trị, Ăn mắm sống không phải là Tây… với yếu tố sự xen lẫn câu thơ, đều biểu đạt tư tưởng, chí hướng của các nhân vật danh sĩ đối với vấn đề vận mệnh dân tộc.

Đây là chỗ giao thoa, khó phân định rạch ròi giữa giai thoại lịch sử và giai thoại văn học. Những giai thoại văn học trong hoàn cảnh mới đã có sự chuyển đổi, chứa đựng tinh thần mới, chuyển tải những nội dung lịch sử nên cũng mang ý nghĩa là một loại giai thoại lịch sử. Hiện tượng này làm gần lại khoảng cách giữa giai thoại văn học và giai thoại lịch sử, đồng thời tạo thêm sự gần gũi về đề tài, nội dung với thể loại truyền thuyết lịch sử.

Chúng tôi tập hợp được 40 đơn vị truyện và 3 dị bản, xoay quanh 14 nhân vật lịch sử.

142

Trong đó, có 1 truyện ghi nhận từ tư liệu sử (Lai lịch địa danh Hà Tiên), còn lại, chủ yếu lấy từ tư liệu sưu tầm, biên soạn.

5.2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO

5.2.1. Mô hình cốt truyện

Nhóm giai thoại có mô hình cốt truyện truyền thống với lược đồ gồm 3 phần: mở đầu, phát triển và kết thúc, gắn với các tiến trình sự kiện sau:

Tiến trình thứ nhất (1): kể về lai lịch nhân vật, thời gian, địa điểm, tình huống sự kiện; hoặc có thể trực tiếp đi vào sự việc. Tiến trình thứ hai (2): kể diễn tiến sự việc, những khía cạnh riêng, gây ấn tượng về nhân vật. Với loại nhân vật danh sĩ trí thức yêu nước, phổ biến nhất là việc tổ chức sự kiện cuộc đấu trí của nhân vật đối với đối phương, nếu liên quan cụ thể đến thơ văn thì sẽ dẫn đến một bài thơ, câu đối hay một lời giải thích, một câu nói... làm điểm mở nút cho câu chuyện, thể hiện trí tuệ của nhân vật và đưa nhân vật đến thắng lợi ra sao... Tiến trình thứ ba (3): kết thúc sự việc về nhân vật hoặc kết quả minh chứng về phẩm chất, sự nhận thức, tình cảm…đối với nhân vật được rút ra từ sự việc.

Mô hình cốt truyện trên được thể hiện ở Bảng 5.1.


Giới thiệu nhân vật và tình huống sự việc (1)

Diễn tiến sự việc (những khía cạnh riêng, gây ấn tượng…) (2)

Kết quả sự việc (kết quả đạt được về nhân vật hoặc dấu tích liên quan) (3)

Khái quát về nghệ thuật, chúng tôi xác lập kiểu nhân vật của hệ thống giai thoại gắn với đề tài - cốt truyện như sau:

Bảng 5.2. Thống kê, phân loại kiểu nhân vật, đề tài - cốt truyện


Hệ thống truyện

Kiểu nhân vật

Đề tài - cốt truyện

Số truyện, dị bản (db)


Giai thoại về danh nhân, danh sĩ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX về trước

Những quan nhân nổi tiếng (KNV.4.1)

Những con người xuất chúng, cá tính đặc biệt (ĐT-CT.4.1)

15

1 db

Những văn tài địa phương (KNV.4.2)

Con người của truyền thống văn tài địa phương (ĐT- CT.4.2)

10

1 db

Những danh nhân trên lịch sử vùng đất (KNV.4.3)

Cảm hứng đặt tên địa danh (ĐT-CT.4.3)

3

Người trí thức yêu nước (KNV.4.4)

Đối kháng thực dân và tay sai (ĐT-CT.4.4)

12

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 189 trang tài liệu này.

Truyền thuyết và giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam bộ từ cuối thế kỷ XIX trở về trước - 18

Xem tất cả 189 trang.

Ngày đăng: 25/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí