Giáo Dục Các Giá Trị Văn Hóa Tinh Thần


này là một quá trình lâu dài từ khi trẻ mới 6, 7 tuổi đến khi trẻ đến gần tuổi trưởng thành 15, 16 tuổi. Khi đó, trẻ đã thuần thục thậm chí có khi còn có thể thay thế cho người cha làm các công việc nặng như cày, bừa, góp phần vào việc phát triển kinh tế của gia đình.

Trao truyền kinh nghiệm làm nương rẫy

Trong những sinh kế của người Nùng Dín, bên cạnh canh tác lúa thì canh tác nương rẫy cũng không kém phần quan trọng nên những kinh nghiệm làm nương rẫy cũng là những tri thức quan trọng mà cha mẹ phải dạy cho trẻ em khi chúng còn nhỏ.

Trong canh tác nương rẫy, việc phát, đốt cây rất quan trọng cho nên những người có kinh nghiệm thường hướng dẫn con cháu cách phát và đốt sao cho nhanh, có hiệu quả, đặc biệt là không để xảy ra cháy rừng. Phát nương rẫy phải thực hiện từ dưới lên trên, trước hết là những dây leo, cây lau, tre nứa rồi mới đến các loại cây gỗ; cây chặt xong được để dọc theo sườn dốc. Ngày phát nương rẫy cũng phải được chọn ngày tốt, tránh với những ngày kiêng kị trong gia đình.

Đốt nương rẫy là việc khó, đòi hỏi người đốt phải có kinh nghiệm và hiểu biết về khí hậu, hướng gió thì mới có thể thực hiện công việc dễ dàng, tốn ít công sức. Trước khi đốt, người ta thường xem gió thổi chiều nào thì đốt theo chiều đó để nhờ chiều gió thổi làm cho lửa có thể lan dần hết khoảng nương rẫy. Để không làm cháy sang nương rẫy người khác hay cháy rừng, trước hết người Nùng Dín tiến hành đốt một khoảng nhỏ nơi tiếp giáp với nương rẫy của người khác hay rừng để tạo khoảng trống, sau đó mới đốt từ phía đầu của mảnh nương nơi không tiếp giáp với nương rẫy của người khác, khi lửa lan đến quãng này thì gặp khoảng trống mà tắt.

Sau vài ngày, đất nương rẫy đã nguội lúc này bà con đi nhặt những cành chưa cháy hết, gom lại một chỗ, tiếp tục đốt. Than và tro ngấm dần xuống đất, trở thành nguồn dinh dưỡng chủ yếu cho cây trồng trên nương rẫy. Tiếp đó, người Nùng Dín sẽ dùng gậy vót nhọn đầu để chọc lỗ rồi tiến hành gieo hạt cho đúng thời vụ.

Quá trình đốt nương rẫy khá là nguy hiểm nên người Nùng Dín chỉ dạy con cháu đã đến tuổi trưởng thành và chỉ cho phép chúng tham gia vào phụ giúp cha mẹ


trong việc phát nương, còn việc đốt nương được cha mẹ vừa thực hiện vừa giảng giải những kinh nghiệm của mình để chúng quan sát.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Giáo dục quan niệm về lao động

Ngoài việc trao truyền những kỹ năng lao động sản xuất như làm ruộng nước, làm nương rẫy thì người Nùng Dín còn giáo dục cho con cháu quan niệm về lao động. Với nền sản xuất nông nghiệp trồng trọt là chính, hiệu quả sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nên muốn tồn tại và tạo lập cuộc sống no đủ cần phải tự lực cánh sinh, dựa vào bàn tay lao động mà làm ra cái ăn, cái mặc. Vì vậy, người Nùng Dín từ khi còn nhỏ đã giáo dục ý thức tự giác lao động, trước hết là giáo dục thói quen lao động, đức tính siêng năng, cần cù, chăm chỉ, chịu khó trong lao động. Trẻ em được huấn luyện thức khuya dậy sớm và lao động từ lúc còn nhỏ (chăn trâu, cắt cỏ, trông em, quét nhà,…). Họ thường bảo “Pphuw chán lê hoóc nác, pphuw tsác lê hoóc nâư – Kẻ lười thì làm nặng, người chăm thì làm nhẹ”. Nó sẽ trở thành một thói quen, một công việc đương nhiên cần phải thực hiện như là một trách nhiệm, nghĩa vụ của thành viên trong gia đình.

Tri thức địa phương về giáo dục trẻ em của người Nùng Dín ở thôn Tùng Lâu, Xã Tung Chung Phố, Huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai - 8

Nền kinh tế nông nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên khiến cho quá trình lao động sản xuất càng vất vả, nhọc nhằn. Chính vì vậy, người Nùng Dín cũng giáo dục con em mình phải tôn trọng thành quả lao động. Họ không cho trẻ em được phung phí hạt cơm, hạt gạo. Trong bữa cơm, không được để cơm rơi vãi hoặc bỏ thừa lãng phí.

Giáo dục con cháu những kỹ năng lao động sản xuất và công việc lao động trong gia đình còn khiến cho con trẻ biết được những nhọc nhằn vất vả của cha mẹ, ông bà để làm ra hạt cơm, hạt gạo, để nuôi sống gia đình. Từ đó, con trẻ hiểu rõ hơn những hy sinh lớn lao, công ơn nuôi dưỡng của ông bà, cha mẹ đồng thời có thái độ đúng đắn về lao động cũng như trách nhiệm của mình với tư cách là một thành viên trong gia đình.

2.2.1.4. Giáo dục các giá trị văn hóa tinh thần

Các giá trị văn hóa tinh thần được người Nùng Dín bảo tồn và phát triển qua nhiều thế hệ đến tận ngày nay, chủ yếu là nhờ hiệu quả giáo dục truyền thống trong


gia đình. Họ không chỉ răn dạy con cháu bằng lời lẽ thông thường mà còn kết hợp với việc thực hành các nghi lễ, lối sống và sinh hoạt truyền thống để truyền thụ. Từ thuở nhỏ, trẻ em người Nùng Dín đã được chứng kiến và thực hành các nghi lễ văn hóa đó, sống trong bầu không khí văn hóa đó nên các giá trị văn hóa này sẽ thấm dần vào tâm hồn một cách tự nhiên và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời họ.

- Giáo dục về tôn giáo, tín ngưỡng

Người Nùng Dín thường có quan niệm “vạn vật hữu linh” tức là “mọi sự vật đều có linh hồn” gọi chung là “pphiw”, đó là các thần thánh, ma quỷ. Phi có 2 loại, phi lành và phi dữ (phúc thần và hung thần). Phúc thần thì được thờ cúng ở gia đình, chỉ ai có hành vi xấu, xúc phạm mới phải làm lễ tạ lỗi để tai qua nạn khỏi. Còn hung thần thì không được thờ cúng, chỉ khi thầy bói nói có ma dữ làm hại mới cúng để loại trừ.

Người Nùng Dín còn tin có loại ma quỷ tồn tại ngay trong con người sống gọi là ma sống “pphiw đíp” chuyên làm hại người và gia súc thông qua pháp thuật của thầy tào bằng cách niệm thần chú hoặc sử dụng vật xúc tác (nước uống, hoa quả) làm cho đối tượng bị hại.

Ngoài ra, người Nùng Dín còn quan niệm trong vũ trụ có 3 thế giới với 3 loại phi khác nhau. Trên trời là các thần thánh gồm tổ tiên, ngọc hoàng thượng đế. Trên mặt đất là các loại “phi rừng” trú ngụ ở các hòn đá, gốc cây cũng thuộc ma lành. Dưới đất (âm phủ) có các ma dữ hay gây ốm đau, bệnh tật cho con người phải nhờ thầy cúng trừ mới khỏi bệnh. Vì vậy từ xưa người Nùng Dín đã hình thành tầng lớp thầy cúng, thầy mo, then để bói toán, cúng trừ ma tà. Từ quan niệm tín ngưỡng như thế, người Nùng Dín đã hình thành nhiều hình thức thờ cúng, phong tục tập quán trong gia đình và cộng đồng.

Hình thức thờ cúng trong gia đình và cộng đồng:

Trong mỗi gia đình truyền thống người Nùng Dín đều có nhiều hình thức thờ cúng khác nhau như thờ cúng tổ tiển; thờ táo quân – vị thần trông coi các thành viên trong gia đình, gia súc, gia cầm; thờ Hoa vương thánh mẫu - người Nùng Dín gọi là


“Mề - pangw” - vị thần cai quản việc sinh nở và chăm sóc bảo vệ trẻ em; thờ thổ công (thổ địa) – đồng bào gọi là “thu tỷ” với quan niệm thổ công là một dạng của mẹ đất- là vị thần cai quản gia súc, tiền của (tài - lộc). Ngoài thổ địa gia đình, người Nùng Dín còn thờ thần thổ địa của làng. Trong các hình thức đó, thờ cúng tổ tiên là hình thức thờ cúng quan trọng và thường xuyên nhất trong gia đình.

Từ quan niệm “vạn vật hữu linh” người Nùng Dín tin rằng con người có linh hồn, là tinh thần bên trong không nắm bắt và nhìn thấy được. Khi chết chỉ là hồn lìa khỏi xác nhưng vẫn tồn tại ở một cõi riêng biệt. ở đó cũng có cuộc sống như trần gian (dương sao âm vậy), có gia đình, làng bản sinh sống. Vì vậy, tuy ở mường tiên xa xôi, linh hồn ông bà, tổ tiên vẫn thường xuyên liên hệ, đi về trông nom và phù hộ cuộc sống con cháu được bình an. Do đó, mọi gia đình các thế hệ đều thờ cúng tổ tiên nhằm mục đích tỏ lòng thành luôn nhớ về công lao của tổ tiên, cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu luôn được an khang thịnh vượng. Ngoài việc thờ cúng như thường lệ, người Nùng Dín còn tục làm lễ rửa mặt “gia tiên”, lễ “trả nợ” tổ tiên khi con cháu đau ốm hoạn nạn do quan niệm tổ tiên không được chăm sóc chu đáo, để quần áo, nhà cửa nhem nhuốc, ngọc thể không được thanh tao.

Trẻ em sống trong gia đình, cùng cha mẹ làm nghi lễ cúng mỗi dịp ngày lễ, ngày Tết, khi có công việc quan trọng trong gia đình,… nghe cha mẹ kể chuyện ông bà, tổ tiên. Thậm chí, khi trẻ ốm đau bệnh tật, cha mẹ cũng thường mời thầy mo về nhà làm lễ cúng tổ tiên xin tổ tiên phù hộ và chữa bệnh cho trẻ. Khi trong nhà gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, gà…) bị bệnh, cha mẹ cũng mời thầy mo về làm lễ trong đó có lễ cúng tổ tiên. Chính vì vậy, tổ tiên vẫn luôn tồn tại trong tâm thức của gia đình và của đứa trẻ, trở thành một phần trong xây dựng thế giới quan của trẻ em, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một nghi lễ không thể thiếu trong đời sống trẻ em cũng như khi chúng trưởng thành và lập gia đình.

Phong tục tập quán và lễ hội:

Người Nùng Dín Lào Cai không tin và theo đạo nào chính thống cả mà chỉ vận dụng vào sinh hoạt tín ngưỡng dân gian trong đời sống của mình một cách phù hợp. Nhờ quan niệm và sự tồn tại các hình thức tín ngưỡng dân gian phong phú đã


không chỉ góp phần hình thành mà còn duy trì được nhiều phong tục tập quán và lễ hội đặc sắc, bảo tồn được sắc thái văn hóa của người Nùng Dín.

Trong tang lễ, người Nùng Dín có các nghi lễ: lễ báo gia tiên và tắm rửa vệ sinh, lễ nhập quan, lễ chuộc hồn (xiên đàng phá ngục), lễ rước kiệu, lễ dâng lễ vật phúng viếng, tiệc lễ, lễ xuất gia, lễ đưa tang hạ huyệt và lễ gọi hồn nhập bàn thờ gia tiên.

Trong cưới xin, người Nùng Dín gồm 4 lễ chính: lễ dạm hỏi, lễ thách cưới, lễ cưới và lễ lại mặt trong đó lễ thách cưới và lễ cưới là quan trọng hơn cả.

Mỗi khi tổ chức đám tang hoặc đám cưới, gia đình người Nùng Dín đều mời anh em họ hàng, hàng xóm láng giềng sang giúp đỡ sao cho đám được tổ chức đầy đủ, thuận lợi, phù hợp với những nghi lễ của tộc người.

Những sinh hoạt tín ngưỡng trong gia đình và cộng đồng từ khi đứa trẻ ra đời và lớn lên đã làm cho đời sống văn hóa tâm linh của chúng chịu ảnh hưởng và hòa nhập với đời sống tâm linh của gia đình và cộng đồng tộc người. Qua những sinh hoạt đó, thế hệ sau mới hiểu được quan niệm của cộng đồng về sự sống, cái chết, về thế giới sau khi chết và nguồn gốc lịch sử của tộc người. Những quan niệm đó được thể hiện trong nhiều bài mo tang lễ của người Nùng Dín như Chần khau chìu (Diễu hồn nhập kiệu), Thamw pangw khon (Khênh linh hồn), Chaow mưng, sloỏng payw slép nghì mưng, slép nghì ban (Giao mường, tiễn đi mười hai mường, mười hai bản),…

Nhiều bài mo trong tang lễ có nội dung mang tính huyền thoại – sử thi dân gian sâu sắc được khái quát hóa thành truyện thơ, ví dụ: Bài mo “Liếng é kha thangw văn – Tiểu hạn giết mặt trời” là câu chuyện kể về sự tích vì sao chỉ có một mặt trời ?. Bài mo “Liếng tứ nắm thum bânw – Đại hạn nước ngập trời” là câu chuyện kể về nạn hồng thủy và nguồn gốc các dân tộc Nùng – Giáy – Tu Dí – Pa Dí. Bài mo “Chào hản hung, Tỉ hản hung – Tâu và đón vua” là câu chuyện về cuộc tranh giành ngôi vua của hai anh em khi vua cha ốm đau sắp tạ thế. Hay bài mo “Răp slảy con mưng – Đón quan quản mường” là câu chuyện nói về sự ra đời của ông vua người Nùng…cùng nhiều bài mo khác nữa có nội dung phản ánh lịch sử


thiên nhiên, vũ trụ, mọi mặt sinh hoạt trong đời sống kinh tế - văn hóa xã hội hiện thực cũng như những ước mơ khát vọng của mỗi con người nói riêng và cả tộc người nói chung.

- Thơ ca dân gian của người Nùng Dín

Từ xa xưa, người Nùng Dín cũng như cộng đồng các dân tộc khác nói chung đã coi dân ca là lời tâm sự, là phương tiện giao tiếp và tỏ tình với người khác giới, là sự rung động của con tim, khi hát họ biểu hiện tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình với mọi người ở mọi nơi, mọi lúc. Bên cạnh những bài hát, làn điệu truyền thống, mỗi lời ca, tiếng hát được cất lên đều xuất phát từ tình cảm thật, từ cảm xúc của con người trong mỗi hoàn cảnh nhất định còn những sáng tác mới góp phần làm cho kho tàng văn hóa thơ ca, những làn điệu dân ca của dân tộc càng thêm phong phú, hát chống thiên tai, hát chống tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè...

Những bài thơ, ca, lời hát riêng trong cuộc sống thường ngày: ca dao tục ngữ, hát truyền thống ngồi mâm cỗ trong đám cưới, đám hỏi; hát thêu địu tã, lót và đưa tã lót chúc mừng cho cháu ngoại sinh đầy tháng; hát đối đáp giao duyên khi trai gái đến làng hoặc hát tìm hiểu yêu nhau; hát trong lao động sản xuất, kỹ thuật làm ăn.

Như vậy, bất cứ một lĩnh vực nào trong đời sống thường ngày đều được đưa vào những vần thơ, được cất lên thành lời ca khi thì trầm ấm, nhẹ nhàng như lời dạy dỗ, chỉ bảo của ông bà, cha mẹ đối với con cái về cách đối nhân xử thế, khi thì vui vẻ hài hước làm tan đi nỗi nhọc nhằn, vất vả trong công việc, khi thì hào hùng, khí thế như một lời thề đồng lòng, quyết tâm vượt qua khó khăn gian khổ...khi thì dịu dàng, êm ái như những lời tâm sự ngọt ngào của những đôi trai gái yêu nhau...

Nhiều bài thơ trở nên hết sức quen thuộc đối với đồng bào vì nó gắn liền với đời sống thường ngày, lao động sản xuất và sinh hoạt văn hóa dân gian như dân ca trong cưới xin. Theo quan niệm của người Nùng Dín, khi con cái đến tuổi cưới hỏi không chỉ là tin mừng mà chuẩn bị cho đám cưới, đám hỏi là việc rất quan trọng của cả nhà trai và nhà gái. Những bài hát trong truyền thống cưới hỏi của người Nùng Dín từ xưa có tới 41 bài hát. Trong 41 bài hát truyền thống ngồi mâm cỗ, nội dung chính không chỉ nói lên phong tục, tập quán đám cưới, đám hỏi, dạm ngõ như thế


nào mà còn truyền tải nội dung về lý lẽ đối xử giữa người với người. Trong đó, phần lớn những bài hát ấy là lời truyền dạy của bậc ông bà, cha mẹ với con cái về kỹ thuật lao động sản xuất, về chăn nuôi, kỹ thuật làm mộc, dựng nhà, kỹ thuật dệt vải may quần áo thành khúc ca hiền hòa từ lao động sản xuất trên đồng ruộng, nương rẫy đến lao động sản xuất trong nhà phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày, nhiều bài đã hết sức quen thuộc với đồng bào như “Lứn tsinh tẳng nằng choông - mời ngồi mâm dự tiệc”; “Lứn ngáo lau, chính muw - thơ ca về nấu rượu, nuôi lợn”; “Lứn oọcj hưw slứ vản, slứ pan - đi chợ mua sắm bát đĩa”; “Lứn đămw pphai - thơ ca về trồng bông dệt vải”; “Lứn slao thàng - chia tay giã biệt”… Thơ ca về lao động có các bài “Lứn đămw vaw - thơ ca trồng hoa”; “Lứn hoóc cắng - thơ ca về lao động”; “Lứn tảu thangw thayw - thơ ca về làm cáy cày”; hay “Lứn slàu slái - thơ ca về đánh giặc”…hoặc “Pảo lao slu - khấn gia tiên”…

Những vần thơ – lời hát dân ca của người Nùng Dín có giá trị rất cao về gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, gìn giữ và phát huy truyền thống giáo dục từ thế hệ trước cho thế hệ sau thông qua lời ca tiếng hát, những khúc tâm tình…Giáo dục đạo đức lối sống trong quan hệ tốt đẹp, lành mạnh giữa người với người, với bậc trên và bậc dưới. Hát về cuộc sống sinh hoạt, cuộc sống lao động sản xuất, củng cố tinh thần đoàn kết nghĩa tình trong bản làng mình cũng như giữa dân tộc mình với cộng đồng các dân tộc khác được hiện thực hóa một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn. Làn điệu dân ca truyền thống không cần nhạc đệm cứ như vậy được truyền từ đời này sang đời khác và là một nét văn hóa độc đáo không thể thiếu trong cuộc sống lao động thường ngày, trong cuộc sống tinh thần phong phú và là một cách thức giáo dục hết sức đặc biệt của của người Nùng Dín nói riêng và các dân tộc trên đất nước Việt Nam nói chung.

Nghệ thuật biểu diễn và nhạc cụ

Cùng với hát dân ca, các chàng trai, cô gái còn được học múa, học chơi nhạc cụ. Múa hát mang lại niềm hứng khởi cho tâm hồn nên mỗi khi có dịp vui, cha mẹ thường dạy cho các con các điệu múa thường ngày như múa gậy (loồng máy tứng), múa côn (thẻo lèng trà), múa trồng đậu tương (thẻo đămw ts ăng) – cầu mong cho


mùa màng bội thu. Đôi khi, họ còn dạy cho con cháu các điệu múa thiêng phục vụ cho các nghi lễ mang tính thiêng trong gia đình như múa ngựa giấy (loồng má slaw) và múa ngỗng. Đây là điệu múa thuộc múa thiêng, chỉ được tổ chức biểu diễn trong tang lễ sau nghi thức lễ chuộc hồn, rước kiệu hồn người quá cố về nhà. Điệu múa thiêng nên nhiều nơi đã mai một, nay chỉ còn duy trì ở Nàn Sán, Bản Mế (Si Ma Cai), thôn Văng Leng xã Tung Chung Phố (Mường Khương).

Để có thể trao truyền những giá trị văn hóa phi vật thể một cách hiệu quả và bảo tồn sống động trong dân gian thì việc giáo dục giá trị của ngôn ngữ và chữ viết có ý nghĩa vô cùng quan trọng5 Hiện nay, hầu hết các giá trị văn hóa phi vật thể của người Nùng Dín đều được các thế hệ người Nùng Dín trao truyền bằng cách truyền miệng. Chính vì vậy, trẻ em người Nùng Dín từ khi bắt đầu học nói đã được cha mẹ, ông bà dạy tiếng mẹ đẻ - tiếng Nùng Dín. Tiếng Nùng Dín là công cụ quan trọng cho trẻ em để giao tiếp, để hòa nhập cộng đồng tộc người cũng như có thể

hiểu rõ những giá trị văn hóa tinh thần của người Nùng Dín.

2.2.2. Phương thức giáo dục

2.2.2.1. Giáo dục theo độ tuổi

Đứa trẻ sau khi lọt lòng còn chưa biết gì, chủ yếu sống bằng bầu sữa mẹ. Từ 6

– 7 tháng tuổi trở lên, ngoài bú sữa mẹ, tắm rửa vệ sinh điều độ bằng lá thuốc, các bà mẹ còn nấu cháo loãng thậm chí nhai kỹ cơm để bón trẻ trong lúc mẹ đi vắng, cháu bị đói. Đặc biệt từ 7 tháng tuổi trở đi, những đứa trẻ hiếu động đã biết trở mình, đến tháng 9 – 10 biết bò, các bà các mẹ còn thường xuyên cù vào đứa trẻ để các cháu trở mình nhanh, tìm hoa quả làm trò chơi quả bóng để kích thích trí tò mò, hiếu động khiến cho trẻ sớm biết và bò nhanh làm cơ thể trẻ nhỏ thêm rắn chắc. Những lúc con cháu buồn ngủ khóc lóc thì dùng địu cõng vừa hát ru vỗ về làm cho cháu chóng ngủ và ngủ ngon.

Từ trên 1 tuổi trở lên, trẻ em đã chập chững biết đi, bập bẹ biết nói và ăn uống khỏe hơn, thời gian này các ông bà, cha mẹ tăng cùng với việc chăm sóc trẻ em từ


5 Chương 2, mục 2.3.1.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 30/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí