Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng góp phần bảo tồn đa dạng sinh học tại cộng đồng dân tộc thiểu số vùng đệm vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An - 2

Danh mục các bảng

Bảng 3.1. Một số thông tin cơ bản của bản Bu và bản Nà, xã Châu Khê năm 2013… 20

Bảng 3.2. Diện tích gieo trồng các nông sản chính của xã Châu Khê năm 2013…21 Bảng 3.3. Thu nhập từ một số loại lâm sản 22

Bảng 3.4. Thống kê thành phần thực vật LSNG dùng làm vật liệu xây dựng và làm vật dụng sinh hoạt… 35

Bảng 3.5. Hiểu biết về đặc điểm của một số LSNG của người Đan Lai 39

Bảng 3.6. Phân loại nhóm thực vật dùng làm lương thực, thực phẩm, gia vị và thức ăn chăn nuôi… 40

Bảng 3.7. Hiểu biết về một số LSNG thường dùng làm dược liệu và thuốc chữa bệnh mà người dân Đan Lai khai thác và sử dụng… 42

Bảng 3.8. Tập quán khai thác và sử dụng cây thuốc của người dân Đan Lai…….45 Bảng 3.9. Một số loại cây dùng làm cây cảnh và cây bóng mát… 47

Bảng 3.10. Xếp loại ưu tiên các loài LSNG theo giới 61

Bảng 3.11. Lịch mùa vụ khai thác một số LSNG chú trọng của cộng đồng người Đan Lai vùng đệm VQG Pù Mát… 62

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Danh mục các hình vẽ


Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng góp phần bảo tồn đa dạng sinh học tại cộng đồng dân tộc thiểu số vùng đệm vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An - 2

Hình 3.1. Bản đồ VQG Pù Mát (vùng lòi và vùng đệm) và 2 bản nghiên cứu…….17 Hình 3.2. Địa hình xã Châu Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An 18

Hình 3.3. Thu nhập trung bình mỗi hộ từ các nguồn thu năm 2013… 23


Hình 3.4. Chu kỳ canh tác nương rẫy truyền thống của người Đan Lai 36


Hình 3.5. Hình thức chăn nuôi ở bản Bu và bản Nà năm 2014 43

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài


Tri thức bản địa (indigenous knowledge) đã gắn liền với đời sống và sinh hoạt của người dân đặc biệt là người dân của các dân tộc ít người. Người dân các dân tộc ở miền núi có hệ thống kiến thức bản địa (KTBĐ) rất phong phú. Hệ thống kiến thức này thực sự là nguồn lực quý giá cho sự phát triển của cộng đồng cũng như sự phát triển của cả xã hội. Nó có một vai trò quan trọng không chỉ về mặt văn hoá, tinh thần mà còn trong sản xuất và đời sống của người dân. Không những thế, hệ thống KTBĐ còn góp phần trong việc duy trì và bảo tồn giá trị đa dạng sinh học (ĐDSH) cho từng địa phương.

Theo Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc (1998), KTBĐ là hệ thống các kiến thức của các dân tộc bản địa hoặc của một cộng đồng tại một khu vực nào đó, nó tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định với sự đóng góp của mọi thành viên trong cộng đồng ở một vùng địa lý xác định. Ở Việt Nam, các TTBĐ thường rất phát triển ở những vùng rừng núi nơi có các khu hệ sinh thái vô cùng phong phú, đa dạng. Các tri thức của người dân về cách sử dụng và bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học (ĐDSH) không đơn thuần có ý nghĩa về khoa học mà còn là tài sản văn hóa quý giá của quốc gia và thế giới. Song theo thời gian, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật (KHKT), sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội (KTXH), như xây dựng thủy điện, khai thác tài nguyên bằng các công cụ công nghệ cao, chuyển đổi mục đích sử dụng đất không được kiểm soát. Do vậy, hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với những vấn đề về suy thoái tài nguyên mà trong đó mất rừng và suy giảm ĐDSH là vấn đề được quan tâm hàng đầu.

Mặt khác các cộng đồng dân sống ở gần hoặc trong rừng vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên (TNTN), đặc biệt là phụ thuộc vào các sản phẩm ngoài gỗ (như mây, tre, măng, nấm, cây thuốc, các loài động vật…) để phục vụ những nhu cầu cơ bản hàng ngày của họ. Sinh kế của các cộng đồng này càng gặp

nhiều khó khăn hơn khi nguồn tài nguyên đang bị cạn kiệt dần bởi những hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên không bền vững.

Trong những năm gần đây, các phương thức khai thác và quản lý TNTN của người dân địa phương ngày càng được cái tiến và hiện đại hơn. Thực tế đã cho thấy các phương thức khai thác càng được cải tiến, hiện đại bao nhiêu thì mức độ tàn phá tài nguyên của chúng càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Trước đấy việc khai thác tài nguyên rừng (TNR) là dựa vào các phương thức thủ công của các cộng đồng bản địa nên việc tàn phải không phải là mỗi lo ngại lớn. Ngày này các công nghệ phát triển, kỹ thuật khai thác hiện đại, một loạt máy móc thiết bị hiện đại như hiện này có thể khai thác một lượng tài nguyên gấp hàng ngàn lần so với phương thức thủ công ngày xưa trong một thời gian ngắn. Vì vậy muốn bảo tồn các TNR và ĐDSH thì cần phải có các phương thức khai thác hợp lý và bền vững. Ngày nay vai trò TTBĐ của các cộng đồng dân tộc thiểu số (DTTS) trong việc bảo tồn các giá trị ĐDSH đã bị đánh giá chưa đầy đủ và gây nên các kết quả tồi tệ trong công tác bảo tồn TNR và ĐDSH. Nên việc đánh giá và duy trì các phương thức này là cần thiết góp phần quản lý và bảo tồn tài nguyên ĐDSH trong bổi cảnh hiện nay.

Vườn Quốc gia (VQG) Pù Mát hiện đang lưu giữ một diện tích rừng rất lớn với tính ĐDSH cao. Diện tích vùng lòi là 94.804,4ha và vùng đệm khoảng 86.000ha, trong đó 94% diện tích đang còn rừng che phủ và khoảng 22% là rừng nguyên sinh. Pù Mát được xem là rừng đặc dụng có diện tích lớn nhất miền Bắc nước ta. Diện tích rừng vùng lòi do VQG quản lý; phần diện tích vùng đệm do công ty lâm nghiệp, chính quyền một số xã và người dân quản lý. Hiện nay, trong vùng đệm đang có hơn 93.500 người có các dân tộc Thái, Khơ Mú, H’mông, Đan Lai, Poọng, Ơ đu và Kinh sinh sống trong 111 thôn bản và tốc độ gia tăng dân số khoảng 2,6% mỗi năm. Đa số dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi đó diện tích đất canh tác ngày càng hạn chế do sự nghèo kiệt nhanh chóng của các vùng đất dốc, do biến đổi khí hậu, do hạn hán và thiếu nước canh tác. Trung bình, người dân sống trong vùng đệm chỉ có thể tự túc được khoảng 2/3 lượng lương

thực, phần còn lại được mua hoặc cung cấp từ đồng bằng. Tình trạng thiếu lương thực trầm trọng hơn ở các bản không hoặc ít ruộng, như bản Bu và bản Nà ở xã Châu Khê, bản Thịn ở xã Lục Giạ, huyện Con Cuông; bản Liên Hương, Tân Hương, Tùng Hương ở xã Tam Quang, huyện Tương Dương,... Để duy trì cuộc sống, người dân sống trong vùng đệm VQG Pù Mát đã phải dựa vào rừng, khai thác tài nguyên từ rừng không chỉ để có đủ cái ăn mà còn để bán lấy tiền chi tiêu cho rất nhiều khoản chi phí khác. Khi gỗ và động vật hoang dã ngày càng trở nên khó khai thác hơn, họ tập trung nhiều vào việc khai thác các loại lâm sản ngoài gỗ (LSNG).

Cộng đồng người Đan Lai tại xã Châu Khê thuộc vùng đệm VQG Pù Mát đặc biệt tại hai bản Bu và bản Nà có cuộc sống gắn bó với núi rừng từ lâu đời, có đời sống KTXH còn quá nghèo nàn lạc hậu, mặt bằng dân trí còn quá thấp (gần 100

% người Đan Lai, trên 90% hộ nghèo và cận nghèo), đang gặp nhiều khó khăn vì nguồn TNR cung cấp cho cuộc sống của họ, trong đó có LSNG ngày càng bị thu hẹp về diện tích và hạn chế về số lượng mà một vài trong số các nguyên nhân đó là sức ép dân số và nhu cầu của thị trường. Mặt khác, những kinh nghiệm bản địa trong khai thác và sử dụng TNR ở khu vực này đặc biệt là vùng đệm vẫn chưa được nhận diện, nhìn nhận và sử dụng một cách đúng mức. Vấn đề bức bách được đặt ra là làm thế nào để cộng đồng người Đan Lai cải thiện được đời sống của mình đồng thời bảo tồn và quản lý bền vững TNR, bảo tồn ĐDSH là một câu hỏi không dễ gì giải đáp đang đặt ra cho các nhà làm công tác phát triển và bảo tồn.

Trước những yêu cầu cấp thiết đó thì tôi thực hiện đề tài: “Tri thức bản địa trong quản lý tài nguyên rừng góp phần bảo tồn đa dạng sinh học tại cộng đồng dân tộc thiểu số vùng đệm vườn quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An”.

2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

2.1.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu TTBĐ của cộng đồng DTTS vùng đệm VQG Pù Mát liên quan tới việc quản lý TNR, từ đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị TTBĐ góp phần phát triển bền vững TNR nói chung và bảo tồn ĐDSH nói riêng, cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao đời sống của người dân.

2.1.2. Mục tiêu cụ thể

- Nghiên cứu những tri thức, kinh nghiệm liên quan đến công tác quản lý TNR của cộng đồng dân tộc thiếu số tại vùng đệm VQG Pù Mát;

- Tìm hiểu những vấn đề về giới và thời gian khai thác, sử dụng TNR và ĐDSH;

- Tìm hiểu các cơ hội, thách thức của việc áp dụng các TTBĐ trong quản lý và phát triển bền vững LSNG tại địa phương;

- Đề xuất các giải pháp phù hợp để bảo tồn và phát triển TTBĐ trong công tác quản lý TNR và bảo tồn ĐDSH tại địa phương cũng như đề ra những biện pháp góp phần nâng cao đời sống phù hợp với TTBĐ của người dân địa phương.

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Tri thức bản địa (Indigenous knowledge) của cộng đồng người Đan Lai tại xã Châu Khê- huyện Con Cuông- tỉnh Nghệ An liên quan đến vấn đề quản lý TNR nói riêng và bảo tồn ĐDSH nói chung.

- Cộng đồng người Đan Lai sống tập trung và lâu đời tại bản Bu và bản Nà, xã Châu Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Tại hai bản này rất ít có dân tộc khác sinh sống và nằm sát ngay vùng lòi VQG Pù Mát là cộng đồng có hoạt động kinh tế bao đời nay chú yếu khai thác các nguồn lợi từ rừng. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu tại hai bản trên.

3. Những đóng góp của đề tài

- Đề tài hoàn thành là một tài liệu bổ ích cho các nghiên cứu về bảo tồn ĐDSH, phát triển kinh tế bền vững của cộng đồng người Đan Lai gắn với việc sử dụng hợp lý TNR.

- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan tâm tới TTBĐ người Đan Lai. Đề tài là nguồn tư liệu khảo sát từ thực tiễn và đề xuất một số ý kiến làm cơ sở bảo lưu các giá trị văn hóa tộc người Đan Lai, phục vụ sự nghiệp bảo tồn tộc người này.


4. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu


Chương 2. Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3. Kết quả nghiên cứu

CHƯƠNG 1. TỐNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Một số khái niệm

1.1.1. Tri thức bản địa


Mặc dù đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng cho tới nay khái niệm TTBĐ hay tri thức truyền thống vẫn chưa được thống nhất. Nói cách khác, tri thức bản địa - tri thức truyền thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào các lĩnh vực chuyên môn và theo các mục đích sử dụng thuật ngữ khác nhau.

Trong “Cẩm nang về TTBĐ” (tài liệu dịch), được NXB Nông nghiệp ấn hành năm 2000, “TTBĐ (còn có thể gọi bằng những tên khác như "kiến thức địa phương", "kiến thức kỹ thuật bản địa" hay "kiến thức truyền thống") là kiến thức mà người dân ở một cộng đồng đã tạo nên và đang phát triển dần theo thời gian”.

Khái niệm “Tri thức bản địa” trong tập tài liệu xuất bản tháng 12 năm 2002 của tổ chức quốc tế COMPAS (Tổ chức quốc tế chuyên nghiên cứu và hoạt động khuyến khích hỗ trợ, phát huy hệ thống Tri thức bản địa của tất cả các cộng đồng dân tộc) công bố: “TTBĐ hoặc là kiến thức địa phương, được tái tạo, được sử dụng, được phát triển từ người dân ở mỗi vùng. Nó không bị giới hạn đối với cư dân bản địa và có thể bao gồm kiến thức nguyên gốc từ mọi miền đã được hòa đồng bởi người địa phương thông qua xử lý địa phương trong học tập, thực nghiệm và thích nghi. Nó hình thành những cơ sở xác định, tổng hợp, nhận biết, khám phá và bảo tồn nguồn tài nguyên địa phương. Nó cũng là gốc rễ của mọi trạng thái thực hành, nâng cao sự hiều biết và luôn luôn hoàn thiện hơn”.

Ở Việt Nam, vấn đề này cũng được nhiều nhà khoa học thuộc cả hai lĩnh vực

- khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - như Lê Trọng Cúc, Hoàng Xuân Tý, Phạm Quang Hoan, Ngô Đức Thịnh… quan tâm. Tuỳ theo cách hiểu của mình, họ cũng đưa ra nhiều khái niệm với những nội hàm khác nhau. Lê Trọng Cúc đồng nhất tri thức địa phương với văn hoá truyền thống. Theo ông, “tri thức địa phương được tích luỹ qua kinh nghiệm to lớn nhờ tiếp xúc chặt chẽ với thiên nhiên, dưới áp lực chọn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/06/2022