Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã nghiêm túc quan triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp và công tác TAND đối với cán bộ công chức trong đơn vị. Thực hiện, mục tiêu cải cách tư pháp được xác định cụ thể, rõ ràng trong tổng thể của giải pháp tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
TANDCC tại Hà Nội nghiêm túc nhìn thẳng vào những hạn chế, thiếu sót của hệ thống Tòa án nói chung, cũng như công tác xét xử của TANDCC tại Hà Nội và Thực hiện áp dụng 14 giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng xét xử, nâng cao hiệu quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, phát huy sức mạnh tập thể, đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng TAND cấp cao tại Hà Nội ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ Thẩm phán thanh liêm, chính trực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, có tấm lòng nhân ái; tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong Toà án.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, góp phần nâng cao năng lực trong các hoạt động, đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, trình độ...thực hiện nghiêm nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng, các phán quyết của Toà án phải dựa trên kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa, chú trọng việc tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, không hạn chế thời gian tranh tụng.
Tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trách nhiệm, kỹ năng xét xử, rút kinh nghiệm áp dụng pháp luật, điều hành tranh tụng tại phiên tòa.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh lượng vụ việc thụ lý rất lớn và gia tăng theo từng năm nên yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý ngày càng cao. Thiết lập chế độ cảnh cáo các trường hợp quá thời hiệu, như: quá thời hạn xác nhận đã nhận đơn; quá thời hiệu giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm; Thay thế được hệ thống sổ sách ghi chép thủ công, thông tin trên phần mềm
được quản lý một cách khoa học, có tính kế thừa,việc tìm kiếm thông tin được nhanh chóng, chính xác; Hỗ trợ việc tự động tạo ra các văn bản tố tụng theo các biểu mẫu, sổ sách nghiệp vụ, các báo cáo thống kê phục vụ cho công tác chuyên môn và phục vụ các tiêu chí báo cáo đặt nền móng cho việc xây dựng Tòa án điện tử trong tương lai.
Đổi mới các thủ tục hành chính trong hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi để cho người dân khi có công việc liên quan đến Tòa án, tạo tiền đề cho các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án, tạo điều kiện để Chánh án quản lý mọi mặt hoạt động nghiệp vụ của Tòa án
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội còn có những hạn chế như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Về Cơ Cấu, Tổ Chức Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Tại Hà Nội
- Thực Trạng Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Tại Hà Nội
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 9
- Bảo Đảm Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Cao Phải Được Thực Hiện Một Cách Đồng Bộ Với Quá Trình Cải Cách Thể Chế, Cải Cách
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 12
- Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
- Việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đạt tỷ lệ chưa cao, có năm không đạt chỉ tiêu do Quốc hội và TAND tối cao giao. Tỷ lệ giải quyết án theo thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính trên tổng số phải giải quyết chưa cao, đặc biệt là các vụ án dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại.
- Một số vi phạm trong quá trình giải quyết các vụ án chưa được khắc phục triệt để, chưa khắc phục triệt để việc bản án tuyên không rõ ràng, một số bản án, quyết định sai sót về số liệu, thông tin người tham gia tố tụng nên phải đính chính, giải thích.
- Một số vụ án còn để kéo dài nhưng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa có biện pháp, chưa tích cực để giải quyết dứt điểm hoặc có trường hợp hoãn phiên tòa không đúng qui định của pháp luật. Vẫn còn vi phạm về thời hạn tạm giam bị cáo trong các vụ án hình sự.
- Hàng năm vẫn có những bản án, quyết định bị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Án bị hủy chiếm phần lớn là án dân sự và án hành chính. Còn một số vụ việc kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm không chính xác làm vụ án kéo dài, có vụ án hủy không có căn cứ, hoặc hủy án nhưng không định hướng cho giai đoạn xét xử lại.
- Việc tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật thông qua các vụ, việc cụ thể trong đơn vị và đối với các Tòa án trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tiễn đề ra.
- Công tác quản lý, điều hành ở một số đơn vị thuộc Tòa án nhân dân cấp cao có lúc, có nơi chưa thực sự hiệu quả, khoa học và chặt chẽ nên hiệu quả công tác chưa cao.
- Việc tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc cho công chức, người lao động còn hạn chế do nguồn kinh phí được cấp rất hạn hẹp nên việc đầu tư chưa đồng bộ (trụ sở làm việc mới, nhưng trang thiết bị, bàn ghế làm việc cũ…). Việc xây dựng Tòa án điện tử, Tòa án thông minh, hiện đại được tiền hành còn chậm.
* Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử giải quyết các loại vụ án:
- Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân cấp cao được mở rộng, số lượng các loại vụ án thụ lý mới theo trình tự phúc thẩm và đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thụ lý, giải quyết tiếp tục có xu hướng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp; trong khi những điều kiện đảm bảo cho hoạt động như: Đội ngũ Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký chưa được bổ sung kịp thời so với yêu cầu nhiệm vụ.
- Trong công tác giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm, hiện nay số lượng công chức được phân công làm công tác này chưa tương xứng với khối lượng công việc phải giải quyết quá lớn. Khối lượng công việc này trước đây do 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và 28 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đồng thời tương ứng với 28 Phòng giám đốc, kiểm tra của Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Tuy nhiên, từ khi thành lập đến nay, với số lượng công chức hiện đang được biên chế thì Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mới
chỉ phân bổ được 40 Thẩm tra viên, Thư ký làm công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nên khó đảm bảo tỷ lệ giải quyết đơn như yêu cầu đặt ra.
- Một số công chức, người lao động chưa phát huy đầy đủ tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động, quyết liệt trong việc triển khai các Nghị quyết, Chỉ thị, kế hoạch công tác của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao; lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp cao trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Việc tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp mà lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đề ra để nâng cao hiệu quả các mặt công tác tại một số đơn vị còn chậm.
- Cá biệt vẫn còn công chức, người lao động hạn chế về năng lực, trình độ, chưa tích cực học tập, chưa hoàn thành nhiệm vụ, còn chủ quan, chưa thận trọng trong việc nghiên cứu, thu thập, đánh giá chứng cứ. Vẫn còn tồn tại tình trạng một số ít công chức có ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương công vụ chưa nghiêm, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt nên hiệu quả công tác thấp.
- Tỷ lệ án hành chính, dân sự bị hủy còn cao; nguyên nhân là do các tranh chấp phát sinh chủ yếu liên quan đến đất đai và là những vụ kiếu kiện khó, phức tạp; một số quy định của pháp luật còn mâu thuẫn hoặc chưa được hướng dẫn nên còn có quan điểm, nhận thức và áp dụng khác nhau giữa các Thẩm phán, giữa các cấp Tòa án, đặc biệt là các quy định của Luật Đất đai về thu hồi, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất; việc đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật trong một số vụ án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; nhiều vụ phải thu thập, xác minh, bổ sung tài liệu chứng cứ và phải chờ Ủy ban nhân dân cung cấp tài liệu, chờ Tòa án địa phương thực hiện việc ủy thác thu thập, xác minh chứng cứ, chờ kết quả giám định… do đó thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài.
- Một số cơ quan, tổ chức chưa thực sự quan tâm đến công tác phối hợp với Toà án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, tham gia định giá tài sản, thực hiện uỷ thác tư pháp…
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện, phương tiện làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 tác giả đã tập trung làm rõ các yếu tố ảnh hướng đến tổ chức và hoạt động của TAND đó là đường lối chính sách của đảng về Tòa án, các qui định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân với các thiết chế chính trị khác, cũng như mối quan hệ giữa các tòa án các cấp đồng thời cũng chỉ ra các yếu tố khác như bối cảnh hiện nay, qui mô dân số, số lượng vụ việc, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bênh cạnh đó chương 2 cũng nêu ra các mục tiêu đặt ra đổi với tổ chức và hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp cao là tổ chức và hoạt động theo thẩm quyền xét xử, đảm bảo tính độc lập của tòa án, xây dựng TAND thông minh, hiện đại, nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các loại án, nâng cao vị thế của tòa án tương xứng với vai trò, trách nhiệm là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Khái quát quá trình hình thành và phát triển về mặt tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao và phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thực tế thu thập được. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của công tác tổ chức, cán bộ và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Từ những kết quả phân tích ở chương này, trên cơ sở các quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là cơ sở để đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hiệu quả hoạt động của TAND cấp cao nói chung và TAND cấp cao tại Hà Nội nói riêng.
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỐ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao
3.1.1. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ phải xây dựng tòa án chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đây là cấu phần quan trọng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả. Do đó sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND là yếu tố quyết định. Đây là điều kiện tiên quyết để nền tư pháp phát triển đúng hướng, bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu đổi mới tổ chức bộ máy TAND là bảo đảm tinh gọn về cơ cấu tổ chức, nâng cao chất lượng xét xử, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp cũng như uy tín của TAND với vai trò là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao thực hiện “quyền tư pháp”, xây dựng hệ thống TAND chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn
thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Việc đổi mới tổ chức bộ máy, hoạt động TAND phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng. Thể hiện trên các mặt sau:
Một là Đảng hoạch định và lãnh đạo thực hiện chiến lược, đường lối cải cách tư pháp. Đây là nội dung quan trọng nhất nằm trong cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cải cách tư pháp ở nước ta. Đảng đề ra đường lối, chiến lược, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch và chế độ, chính sách cụ thể. Qua đó, chủ trương, đường lối của Đảng từ chỗ chỉ là những định hướng trở thành những giá trị phổ biến, bắt buộc, có tính pháp lý để các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp tổ chức triển khai thực hiện, bảo đảm cho các nghị quyết của Đảng đối với công tác tư pháp được thực hiện có hiệu quả và đi vào đời sống xã hội. Đây là kết quả của việc cụ thể hóa đường lối, nghị quyết của Đảng và có thể xem đó là công cụ gián tiếp để Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với công cuộc cải cách tư pháp.
Hai là, Đảng bố trí cán bộ của Đảng làm nòng cốt trong các Tòa án và lãnh đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ: Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thanh liêm, chính trực, vững vàng về bản lĩnh chính trị, tinh thông pháp luật được xác định là trọng tâm ưu tiên của Đảng trong quá trình cải cách tư pháp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của TAND. Kiểm tra, giám sát là cách thức để thực thi sự lãnh đạo của Đảng; bổ sung, kiểm định, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với hoạt động tư pháp, Đảng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thông qua tổ chức đảng và cơ quan kiểm tra của Đảng; đồng thời, lãnh đạo các cơ quan dân
cử, tổ chức xã hội và người dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của TAND. Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cài cách hoạt động xét xử là trọng tâm; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Định hướng trên nhằm đảm bào sự minh bạch, sự tôn trọng pháp luật, sự độc lập và tuân theo pháp luật của hoạt động xét xử, đồng thời tạo cơ chế phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Trong xu thế hội nhập quốc tế, đòi hỏi từ yêu cầu thực tế thì cùng với sự đổi mới hệ thống Tòa án thì phương thức lãnh đạo của Đảng đổi với hoạt động cải cách tư pháp nói chung, đổi mới hoạt động tổ chức của hệ thống tòa án cần có sự đổi mới nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của đảng nhưng không can thiệp làm mất đi tính độc lập của Tòa án khi thực hiện quyền tư pháp.
3.1.2. Bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao phải được tiến hành đồng hộ với cải cách hệ thống Tòa án nhân dân, các cơ quan tư pháp và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước.
Tòa án nhân dân cấp cao là một cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân dân và cho dù yêu cầu có sự độc lập trong hoạt động xét xử nhưng không thề tách rời với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện cả về cơ cấu tổ chức và các mối liên hệ trong hoạt động xét xử, đặc biệt là mối quan hệ theo 2 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Điều này đòi hỏi việc đổi mới tổ chức và hoạt động cúa Tòa án nhân dân cấp cao phải có sự gắn kết, tương xứng và đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử của Tòa án còn dựa trên pháp luật, căn cứ vào các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, hoạt động bổ trợ tư pháp(BTTP), hoạt động hành chính của các cơ quan nhà nước và sự lãnh đạo, phối hợp của các thiết chế chính trị khác. Bởi vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND nói chung, TAND cấp cao nói riêng còn phải đặt trong mối quan hệ với quá trình đổi mới các thiết chế trong hệ thống chính trị, sự lãnh