45
Tiểu kết chương 1
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án trong Chương 1 cho thấy, vấn đề tranh tụng, chất lượng tranh tụng trong TTHS nói chung và tranh tụng, chất lượng tranh tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
2. Ở các mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh như: Tầm quan trọng của tranh tụng trong các mô hình TTHS trên thế giới; xu hướng mô hình TTHS trên thế giới và Việt Nam; khái niệm, vai trò của tranh tụng trong TTHS; thực trạng tranh tụng của các chủ thể tranh tụng trong phạm vi không gian, thời gian nhất định; những quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng tranh tụng trong TTHS. Những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên có ý nghĩa tham khảo quan trọng cho nghiên cứu sinh khi thực hiện đề tài luận án.
3. Đánh giá một cách toàn diện, đa số các công trình nghiên cứu mới chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát, nhiều công trình được thực hiện khi chưa ban hành Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015 nên chưa làm rõ chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu của CCTP trong giai đoạn hiện nay (nhất là sau khi có Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng). Do đó, nhiều vấn đề chưa được đi sâu nghiên cứu, làm rõ; tạo khoảng trống cho nghiên cứu sinh tiếp cận nghiên cứu.
4. Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, tác giả đã xây dựng giả thuyết nghiên cứu, đặt ra các câu hỏi nghiên cứu và khẳng định: Việc nghiên cứu sinh lựa chọn thực hiện đề tài luận án “Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” là vấn đề mới, không trùng lặp với bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đó. Đồng thời, tác giả cho rằng, kết quả nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong công tác của ngành KSND nói riêng và công tác của các cơ quan trong hệ thống tư pháp và hệ thống cơ quan bổ trợ tư pháp nói chung.
46
Chương 2
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 4
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
- Đặc Điểm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Theo Yêu Cầu Cải Cách Tư Pháp
- Yêu Cầu Của Cải Cách Tư Pháp Đối Với Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự
- Các Yếu Tố Bảo Đảm Chất Lượng Tranh Tụng Của Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện Tại Phiên Tòa Xét Xử Hình Sự Theo Yêu Cầu Cải Cách
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
2.1.1.1. Khái niệm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
- Về thuật ngữ “tranh tụng”, “tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự”, “tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự”:
Xét về mặt lịch sử, những quan điểm, tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của Platon khi ông cho rằng bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật [108]. Sau đó, ý tưởng này đã được các luật gia Hy Lạp phát triển thành một nguyên tắc cơ bản của TTHS Hy Lạp cổ đại, xác định tranh tụng là một thủ tục tố tụng, theo đó các bên có lập trường tương phản với nhau có quyền yêu cầu, đề nghị Tòa án phân xử. Ở La Mã và một số quốc gia cổ đại khác ở Châu Âu, thủ tục tố tụng tranh tụng được gọi là “thủ tục hỏi đáp liên tục” [29]. Đến nay, tranh tụng được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới, cho dù ở các nước có sự khác nhau về hệ thống tư pháp (theo hệ thống luật án lệ - common law, hệ thống luật lục địa - continental law hay hệ thống pháp luật XHCN), khác nhau về mô hình TTHS; bởi vì tranh tụng là một cơ chế tố tụng hiệu quả trong bảo vệ công lý, quyền con người, giúp Tòa án có thêm căn cứ, cơ sở để xác định sự thật khách quan, đưa ra những phán quyết đúng đắn về vụ án.
47
Ở Việt Nam, thuật ngữ “tranh tụng” đã được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng. Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” khẳng định cần phải nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. Trong đó, khẳng định “nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”; “việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [8]. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, nêu rõ yêu cầu của CCTP, đồng thời, xác định tại phiên tòa phải bảo đảm chất lượng tranh tụng, kết quả tranh tụng sẽ là căn cứ quan trọng để tòa án ban hành phán quyết…[9]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược CCTP đến năm 2020”; xác định một trong các nhiệm vụ CCTP là “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”, trong đó “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”; đồng thời nêu rõ một trong những nội dung của nhiệm vụ “hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp” là phải “hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa” [10]. Những chủ trương, quan điểm của Đảng về vấn đề tranh tụng phản ánh sự đổi mới tư duy trong CCTP; là định hướng quan trọng để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện trên thực tế.
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được hiến định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [84]; sau đó tiếp tục được cụ thể hóa trong Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 với việc khẳng định: “Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho KSV, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình
48
đẳng trước Tòa án”. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”; quá trình tuân thủ quy định về thủ tục tranh tụng diễn ra trong phiên tòa [86; 87]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng làm cơ sở cho nhận thức và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng.
Trong tiếng Anh, tranh tụng là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Thuật ngữ “tranh tụng” còn được giải thích cụ thể trong các từ điển như: Tranh tụng là “kiện tụng” [106, tr.1686]; “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải” [155, tr.621]; “các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập” [121, tr.808]; “tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, có quyền bình đẳng ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mỗi bên đối lập, làm cơ sở để Tòa án ra phán quyết” [107, tr.1328].
Trong các công trình khoa học, tranh tụng được luận giải theo quan điểm riêng của các nhà khoa học như: Tranh tụng là sự ghép lại của hai từ “tranh luận” và “tố tụng”, là “tranh luận trong tố tụng”.
Tranh tụng là quá trình tồn tại, vận động và đấu tranh giữa hai chức năng đối trọng với nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ các ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia: Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa, khi xuất hiện chức năng buộc tội thì tất yếu đòi hỏi xuất hiện chức năng bào chữa [101, tr.85].
“Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại, bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia”; “Tranh tụng là một hoạt động trong quá trình TTHS” [96]. Tranh tụng (khái niệm được sử dụng trong phạm vi, giới hạn khái niệm về mô hình tố tụng) “là cách thức tổ chức hoạt động TTHS tìm đến sự thật khách quan của vụ án” [102, tr.89]…
Như vậy, tranh tụng diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong TTHS, tranh tụng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau: Tranh tụng là một mô hình
49
TTHS; là một nguyên tắc trong TTHS; là một quá trình hoặc hoạt động trong quá trình TTHS. Bên cạnh đó, trong quan niệm về “tranh tụng” còn có sự khác nhau về thời điểm thực hiện tranh tụng (từ khi có hoạt động buộc tội - ngay từ giai đoạn điều tra; hoặc gắn liền với phiên tòa xét xử).
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng tôi không đề cập tranh tụng nói chung mà tiếp cận trên phương diện tranh tụng trong TTHS; với khía cạnh là một hoạt động TTHS, phản ánh sự tham gia của các chủ thể tranh tụng mà đặc trưng là bên buộc tội và bên gỡ tội (bên bào chữa). Xét ở góc độ khái quát, bất kỳ hoạt động nào trong TTHS, đều hướng tới làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, tùy từng hoạt động cụ thể mà có những mục đích trực tiếp, phản ánh bản chất của hoạt động đó. Đối với hoạt động tranh tụng trong TTHS, thể hiện tính chất “đối kháng” trong việc đưa ra và bảo vệ quan điểm của các bên chủ thể khi tranh tụng, diễn ra trong một không gian, thời gian nhất định, kết quả của hoạt động này là căn cứ quan trọng, chủ yếu để Tòa án ban hành phán quyết, giải quyết vụ án công minh, chính xác. Do đó, tranh tụng trong TTHS phải diễn ra trực tiếp tại phiên tòa XXHS, do các bên có quan điểm đối lập nhau đưa ra (bên buộc tội, bên gỡ tội), với mục đích phải bảo vệ được quan điểm của mỗi bên, thông qua việc đưa ra, khẳng định sự tin cậy, logic, hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, bác bỏ quan điểm của bên đối tụng. Quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng phải tuân theo quy định của pháp luật TTHS, trong đó, tuân thủ sự điều khiển tranh tụng của chủ thể có chức năng xét xử - Tòa án.
Phiên tòa XXST hình sự là phiên tòa xét xử lần đầu vụ án hình sự, qua đó TAND (cấp huyện, cấp tỉnh) có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự theo thẩm quyền, sẽ xem xét toàn diện chứng cứ và ra quyết định giải quyết vụ án hình sự. Phiên tòa XXST hình sự là cấp xét xử đầu tiên, có tính bắt buộc đối với bất kỳ một vụ án hình sự nào. Vì thế, phiên tòa này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án, phán quyết hành vi của người phạm tội và giải quyết những vấn đề khác của vụ án.
Trong các giai đoạn TTHS (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) thì giai đoạn xét xử là giai đoạn trung tâm, quyết định tính đúng đắn, khách quan của toàn bộ quá trình TTHS nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Trong giai đoạn này, hoạt động tranh
50
tụng được tiến hành công khai tại phiên tòa, theo nguyên tắc xét xử công khai. Bản chất của hoạt động tranh tụng cũng được bộc lộ đầy đủ, rõ nét nhất tại phiên tòa.
Theo quy định của luật TTHS Việt Nam, xét xử vụ án hình sự được tiến hành theo hai cấp xét xử, gồm có XXST, xét xử phúc thẩm; với các phiên tòa xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm). Tuy nhiên, chỉ có tại phiên tòa sơ thẩm - với tư cách là phiên tòa lần đầu xem xét và quyết định về toàn bộ nội dung vụ án - mới thể hiện đầy đủ nhất, toàn diện nhất các yếu tố đặc trưng của tranh tụng bởi sự có mặt đầy đủ của các chủ thể của các bên buộc tội, bào chữa, HĐXX; sự thực hiện đầy đủ các chức năng của TTHS (chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử); các chứng cứ, tài liệu về vụ án được kiểm tra, xác minh công khai; phán quyết về vụ án được đưa ra trên cơ sở xem xét, đánh giá quan điểm của các bên về các vấn đề của vụ án… Trong phiên tòa phúc thẩm, các yếu tố tranh tụng bị hạn chế bởi phạm vi xem xét phúc thẩm (nội dung kháng cáo, kháng nghị). Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt, khi thỏa mãn những yêu cầu, điều kiện do pháp luật quy định; nên sẽ không có đầy đủ các yếu tố đặc trưng của tranh tụng tại phiên tòa. Vì thế, tại phiên tòa XXST hình sự, hoạt động tranh tụng được biểu hiện rõ nét nhất.
Từ đó, có thể khẳng định: Tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự là một loại hoạt động trong quá trình tố tụng được tiến hành tại phiên tòa XXST hình sự bởi hai bên chủ thể chủ yếu (bên buộc tội và bên bị buộc tội); nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên; dưới sự điều khiển của HĐXX với vai trò trung gian, trọng tài; giúp cho HĐXX đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự là một hoạt động TTHS; thể hiện qua cuộc tranh luận, đối đáp, bảo vệ quan điểm giữa hai bên có lập trường, quan điểm trái với nhau; yêu cầu Tòa án làm trọng tài đưa ra phán quyết cuối cùng; diễn ra tại phiên tòa XXST hình sự. Tranh tụng tại phiên toà XXST hình sự giống như một cuộc điều tra công khai và sự đối đáp, tranh luận giữa các bên suy cho cùng là nhằm bảo vệ quan điểm của mỗi bên, trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan của vụ án. Dựa vào các chứng cứ, tài liệu, đặc biệt là tranh tụng tại phiên tòa, Toà án sẽ ra phán quyết cuối cùng đối với vụ án. Tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự, do đó, không phải là “chống chọi, đánh trả” giữa các nhà tố tụng tư pháp hay giữa hai bên đối tụng, mà là sự trình bày, giải trình, luận giải, phân tích để làm
51
rõ một nội dung, một vấn đề, để thuyết phục người khác chấp nhận toàn bộ (do bên buộc tội đưa ra) hoặc một phần quan điểm của mình (do bên gỡ tội đưa ra) và hướng tới việc bảo vệ công lý.
Tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự chỉ là một giai đoạn của cả quá trình, nhưng lại là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng. Tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự có sự tham gia đầy đủ của các bên: Bên buộc tội, bên bị buộc tội và Tòa án. Bên buộc tội (KSV), bên bị buộc tội (Luật sư bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo, bị cáo) có quyền đưa ra các chứng cứ, lập luận bảo vệ quan điểm của mình. Tòa án (thông qua HĐXX, trực tiếp là chủ tọa phiên tòa) điều khiển quá trình tranh tụng một cách khách quan, công bằng; trên cơ sở kết quả tranh tụng (kết quả quan trọng, chủ yếu), Tòa án sẽ ban hành phán quyết về vụ án.
- Về vấn đề “tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS”:
Tiếp cận vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS có những quan điểm khác nhau.
Một là, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện diễn ra trong tất cả các bước, các giai đoạn của quá trình XXST hình sự, ngay từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến khi nghị án. Theo đó, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện và những người tham gia tố tụng khác (bao gồm cả bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…) sẽ thể hiện vai trò của mình tại phiên tòa bắt đầu từ khi chủ tọa phiên tòa hỏi họ xem “có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, Thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật hay không, lý do của việc đề nghị thay đổi” [87]. Điều này được giải thích vì từ lúc này, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đã phải khẳng định quan điểm của mình về những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; ngược lại, bị cáo, người bào chữa cũng có quyền ý kiến thay đổi những người trên, nêu rõ lý do theo quan điểm lập luận của mình. Trong phần nghị án, vai trò của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, bị cáo, người bào chữa thể hiện qua việc HĐXX sơ thẩm trước khi đưa ra phán quyết, phải xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.
52
Hai là, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS không phải được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của phiên tòa XXST hình sự mà chỉ liên quan tới những nội dung Kiểm sát viên VKSND cấp huyện thực hiện sự tranh tụng trực tiếp với chủ thể tranh tụng khác - những chủ thể có quan điểm khác biệt với KSV, bao gồm người bào chữa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác - để bảo vệ quan điểm của VKS. Theo đó, tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện được bắt đầu từ khi KSV đọc Bản cáo trạng, chính thức thể hiện quan điểm của VKS buộc tội bị cáo trước tòa và phải kết thúc trước khi HĐXX nghị án.
Ba là, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS chỉ gắn liền với hoạt động tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Quan điểm này đồng nhất hoạt động tranh tụng với hoạt động tranh luận tại phiên tòa XXST hình sự của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. Do đó, bắt đầu và kết thúc tranh luận cũng là sự bắt đầu, kết thúc tranh tụng của KSV tại phiên tòa XXHS.
Chúng tôi cho rằng, khi đề cập tới tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải dựa trên sự nhất quán với quan điểm tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự nói chung và quy định của pháp luật về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa gắn liền với sự tham gia của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. Điều này cho phép xác định phạm vi tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện (bao gồm phạm vi thời gian diễn ra hoạt động tranh tụng theo tiến trình diễn biến của phiên tòa XXHS và phạm vi nội dung tranh tụng), chủ thể tham gia tranh tụng với Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, giá trị của tranh tụng trong việc ban hành phán quyết của Tòa án (HĐXX).
Từ bản chất của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự: Khi tranh tụng, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện phải đưa ra, bảo vệ ý kiến, luận điểm của mình (việc buộc tội đối với bị cáo), bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia (việc gỡ tội đối với bị cáo), dưới sự điều khiển của Tòa án (HĐXX), từ đó, giúp cho Tòa án (HĐXX) đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, các hoạt động khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa chỉ là bước chuẩn bị các điều kiện để bảo đảm phiên tòa diễn ra hợp pháp, khách quan; đồng thời, cũng là chuẩn bị cho việc tiến hành các hoạt động khác tại phiên tòa, trong đó có hoạt động tranh tụng