Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 12

nhận thức, phương châm hành động trong toàn hệ thống về đổi mới tổ chức bộ máy tòa án, trong đó tranh thủ được sự đồng lòng của cán bộ công chức, sự ủng hộ của các cơ quan, tổ chức liên quan nói riêng và nhân dân nói chung.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án, Hội thẩm nhân dân trong sạch, vững mạnh, có trình độ chuyên môn cao.

Thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; coi trọng công tác cụ thể hóa, thể chế hóa, xây dựng đầy đủ các quy chế, quy định tạo cơ sở pháp lý và tính thống nhất trong thực hiện, bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ trong công tác cán bộ. Đổi mới cơ chế, phương pháp, nội dung và hình thức tạo nguồn, tuyển chọn cán bộ phù hợp với vị trí việc làm - năng lực công chức. Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn cán bộ, thực hiện việc tuyển chọn thông qua thi cử công khai. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội cạnh tranh như nhau. Thực hiện rà soát để bảo đảm bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ có hiệu quả, theo hướng chuyên sâu, chủ động. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển, công tác bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.

Đổi mới, tăng cường và tạo sự chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán. Đây là giải pháp quan trọng có tính quyết định để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án. Lựa chọn, đào tạo phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở gắn với Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 của Đảng, đào tạo kiến thức chuyên môn sâu với kỹ năng nghề nghiệp, sử dụng tốt ngoại ngữ, tin học.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; quản lý cán bộ, tăng cường kỷ luật công vụ gắn với kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những cán bộ, Thẩm phán có vi phạm như hoàn chỉnh các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu Tòa án các cấp trong giáo dục, quản lý cán bộ. Thực hiện nghiêm túc Quy tắc ứng xử của cán bộ Tòa án, yêu cầu của Luật phòng, chống tham nhũng; Quy tắc đạo đức Thẩm phán; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những cán bộ,

Thẩm phán vi phạm kỷ luật công vụ. Từng đơn vị, cá nhân phải thấm nhuần, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống và tự xây dựng kế hoạch hành động cho đơn vị, cá nhân; phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình; kiến quyết đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tích cực tham gia, hưởng ứng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

- Tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử và sự giám sát của nhân dân đối với tố chức và hoạt động của Tòa án đòi hỏi hoạt động của TAND phải đặt người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ Nhân dân làm tôn chỉ, mục đích hoạt động. Tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động theo hướng đảm bảo trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đúng như bản chất “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và phương châm “ Gần dân, học dân, hiểu dân, giúp dân”, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt động tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện chế định Hội thẩm Nhân dân theo hướng hạn chế tính hình thức, tăng cường tính Nhân dân, dân chủ; nghiên cứu, tiếp thu nhân tố hợp lý của chế định Bồi thẩm đoàn.

Phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan dân cử, của công luận và của Nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đề cao trách nhiệm tự giám sát trong nội bộ của cơ quan tư pháp; coi trọng và tăng cường sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường công khai, minh bạch, thông tin kịp thời cho người dân; tích cực đối thoại, giải trình và lắng nghe nhân dân để gần dân hơn, hiểu dân nhiều hơn, giúp dân dân được nhiều hơn và học hỏi thêm được nhiều điều từ nhân dân. Tận dụng những lợi thế của công nghệ, hướng tới xây dựng Tòa án thông minh; công khai, minh bạch hoạt động tư pháp; tăng cường khả năng

tiếp cận công lý của người dân; giảm bớt thủ tục và chi phí xã hội không cần thiết.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các chế định bổ trợ tư pháp. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra chủ trương xã hội hóa nhiều hoạt động trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như: Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn, Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình; hoàn thiện chế định công chứng, xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng; xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này; nghiên cứu chế định thừa phát lại. Trong nhưng năm qua các chế định bổ trợ tư pháp đã góp phần cùng các cơ quan tiến hành tố tụng đấy nhanh tiến độ giải quyết, nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án, cung cấp căn cứ khoa học để các cơ quan tố tụng đưa ra các quyết định, cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người dân… Với việc thực hiện các giải pháp đồng bộ, hoạt động bổ trợ tư pháp đã đi vào nề nếp và đạt được kết quả tích cực. Các tổ chức giám định tư pháp đã phục vụ hiệu quả yêu cầu giám định tư pháp, nhất là phục vụ các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, làm cơ sở quan trọng cho việc xem xét, phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai, kết luận giám định chính xác, khách quan, thời hạn giám định kịp thời. Trong công tác luật sư và trợ giúp pháp lý đã và đang thực hiện đúng định hướng, chủ trương của Đảng, Nhà nước, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thuộc đối tượng trợ giúp, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Tuy nhiên năng lực, kinh nghiệm hành nghề, bản lĩnh chính trị và đạo đức của một số cá nhân hoạt động bổ trợ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu, còn để xảy ra sai sót, vi phạm. Để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực bổ trợ tư pháp, thời gian tới cần tăng cường công tác quản lý, kịp thời phát hiện, xử lý những sai phạm, hướng dẫn các tổ chức thực hiện đúng các quy định pháp luật. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các chủ trương, chính sách để các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động BTTP đúng pháp luật, bảo đảm hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý với các hoạt động đã thực hiện xã hội hóa nhằm phòng ngừa vi phạm trong tổ chức và hoạt động. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức tiến hành hoạt động BTTP chú trọng củng cố, kiện toàn tổ chức; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp cho những người hành nghề hoặc làm công tác BTTP tại tổ chức mình, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Có biện pháp quản lý chặt chẽ đối với người thực hiện các hoạt động BTTP của tổ chức mình, bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra sai phạm. Tăng cường quan hệ phối hợp, trao đổi thông tin đầy đủ, thường xuyên giữa các cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện hoạt động bổ trợ tư pháp

- Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động của Tòa án các cấp. Cải cách chính sách chế độ đãi ngộ đối với cán bộ có chức danh tư pháp. Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho cán bộ Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp. Trước hết, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục bám sát các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công tác chỉ đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp. Tập trung kinh phí và rà soát, xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sữa chữa cải tạo trụ sở làm việc. Phối hợp với các cơ

Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội - 12

quan, bộ, ngành chức năng xây dựng các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng chức danh cán bộ theo đặc thù Tòa án. Phát triển việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của Tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại hóa về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; hệ thống các phần mềm ứng dụng chuyên biệt của Tòa án có đủ về số lượng với công nghệ hiện đại, thuận tiện, dễ sử dụng, bảo đảm phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp chủ yếu thông qua hệ thống mạng máy tính, đáp ứng các yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hóa các hoạt động của Tòa án nhân dân.

Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân. Chế độ chính sách, tiền lương là một trong những vấn đề bảo đảm tính độc lập của đội ngũ cán bộ tuy đã được quan tâm nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay thì còn nhiều bất cập, chưa tính toán đầy đủ tới đặc thù của hoạt động Tòa án. Xây dựng cơ chế hữu hiệu và qui định để nhận dạng các hành vi để bảo bảo vệ thẩm phán và cán bộ tòa án, phòng chống các hành vi hành hung, lăng mạ, khủng bố tinh thần đối với thẩm phán.

- Đẩy mạnh các giải pháp đổi mới thủ tục hành chính tư pháp đang thực hiện; tổ chức bộ phận hành chính tư pháp tại tất cả các tòa án; thực hiện quy chế một cửa liên thông và đơn giản hóa việc tiếp nhận hồ sơ, thông tin, tài liệu; công khai trên mạng các thủ tục hành chính tư pháp, hệ thống pháp luật, các biểu mẫu tư pháp, lịch tiếp công dân và giải quyết các yêu cầu của đương sự về tố tụng. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu phương pháp thực hiện hòa giải, đối thoại và xét xử một số loại án tại các địa bàn dân cư; thí điểm xét xử trực tuyến một số loại án; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng và quản lý tòa án để tiến tới xây dựng tòa án điện tử.

- Tiếp tục thực hiện đường lối hợp tác quốc tế nhằm tiếp thu chọn lọc những thành tựu khoa học pháp lý tiên tiến đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới, kinh nghiệm quản lý, đào tạo, tranh thủ được sự hỗ trợ của các nước

trong xây dựng Tòa án điện tử, hiện đại, chuyên nghiêp.điện tử, hiện đại, chuyên nghiêp.

3.2.2. Giải pháp cụ thể bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

3.2.2.1. Giải pháp về cơ cấu, tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà

Nội.

- Lãnh đạo của đảng với TAND cấp cao, sự giám sát của cơ quan dân cử:

Qua thực tiễn 5 năm thi hành luật tổ chức TAND năm 2014 thì mô hình đảng và sự giám sát của cơ quan dân cư như hiện nay là tương đối phù hợp. Theo đó Đảng bộ Toà án nhân dân tối cao gồm các tổ chức đảng ở các đơn vị trực thuộc Toà án nhân dân tối cao và đảng bộ cấp cơ sở là các Toà án nhân dân cấp cao trực thuộc Ban Bí thư quản lý. Đảng bộ Toà án nhân dân tối cao là cấp ủy cấp trên trực tiếp của đảng bộ cơ sở tại các Toà án nhân dân cấp cao. Ở cấp tỉnh đảng bộ TAND tỉnh là cấp ủy cấp trên của tổ chức đảng TAND cấp huyện, đồng thời cơ cấu cứng Chánh án tham gia cấp ủy địa phương. Về sự giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động của TAND cấp cao thì Chánh án TAND cấp cao báo cáo công tác với TAND tối cao, TAND tối cáo báo cáo công tác trước Quốc Hội. Như vậy mô hình trên vẫn đảm bảo được sự lãnh đạo của đảng với hoạt động tư pháp, chánh chung chung, không rõ định hướng, sự giám sát cơ quan dân cử đối với TAND cấp cao tại Hà Nội. Mô hình trên cũng được Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao đề xuất áp dụng đối với TAND tỉnh, huyện nhằm đảm bảo sự độc lập của tòa án, ngăn chặn sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Tòa án.

- Tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong Tòa án nhân dân cấp cao. Thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) gắn với Chỉ thị sổ 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh.

- Phân quyền quản lý cán bộ cho TAND cấp cao theo qui định của Luật

TCTAND năm 2014, tạo sự chủ động trong công tác xây dựng nguồn, luôn chuyển, bổ nhiệm, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng.

- Mở rộng đối tượng được bổ nhiệm chức danh thẩm phán cao cấp thông qua thi tuyển, khắc phục tình trạng hiện nay nguồn chủ yếu là tư các thẩm tra viên, thẩm phán trung cấp trong TAND các cấp mà chưa thu hút được các chuyên gia pháp lý, người có kinh kiệm, uy tín ngoài ngành làm thẩm phán cao cấp để thực hiện công tác xét xử.

- Tăng thêm số lượng thẩm phán và đội ngũ thẩm tra viên, thư ký đủ số lượng để thực hiện nhiệm vụ do số lượng công việc ngày càng tăng, trong khi vẫn phải thực hiện chủ trương tinh giản biên chế của đảng và nhà nước.

- Qui định mở việc Tòa án cấp cao có cả chức danh thẩm phán sơ cấp trung cấp, cao cấp để tạo nguồn và chủ động luôn chuyển thẩm phán sơ cấp, trung cấp từ tòa án cấp tỉnh, huyện lên TAND Cấp cao giải quyết vụ việc, giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm khắc phục tình trạng biệt phái tại chỗ các thẩm tra viên từ Tòa án các tỉnh lên giải quyết đơn nhưng hiệu quả chưa cao vì đội ngũ này thường chưa kinh qua công tác xét xử.

- Cơ cấu lại số lượng các Tòa chuyên trách, phòng và bộ máy giúp việc và thẩm quyền của một số các Tòa phòng tại TAND cấp cao. Đổi mới tổ chức bộ máy TAND cấp cao theo hướng tổ chức các tòa chuyên trách, phù hợp với điều kiện của từng TAND cấp cao; kiện toàn tổ chức và sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của bộ máy giúp việc. Đối với TAND cấp cao trong tình hình hiện nay cần thiết thành lập đủ số Tòa chuyên trách bảo đảm cho việc chuyên môn hóa, tùy tính chất và khối lượng công việc Chánh án Tòa cấp cao tổ chức công tác xét xử giữa các Tòa chuyên trách. Việc gộp chức năng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng thành một phòng tại TAND cấp cao là chưa phù hợp. Chuyển chức năng Thanh tra cho Thanh tra TAND tối cao do đây là thẩm quyền của TAND tối cao, việc không qui định chức năng thanh tra của TAND cấp cao tranh chồng chéo, nhiều cấp trong thực hiện thanh tra.

Về các phòng Giám đốc, kiểm tra thuộc TAND cấp cao là cơ quan tham mưu cho ủy ban thẩm phán trong xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các loại vụ án số lượng công việc nhiều, lương đơn tồn đọng và chưa đạt chỉ tiêu do vậy cần tổ chức phù hợp hơn, chuyên môn hóa hơn như thành lập thêm phòng giám đốc kiểm tra án hành chính do đây là loại án đặc thù, phức tạp.

- Thành lập thêm các Tòa án cấp cao theo đề án của TAND tối cao ở Cần Thơ và Yên Bài giảm bớt công việc cho các Tòa án cấp cao hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân, cơ quan, tố chức khi tham gia tố tụng và tiếp cận với Tòa án.

- Chuyển giao một số thẩm quyền Giám đốc thẩm, tái thẩm cho Ủy ban thẩm phán TAND tỉnh (có thể chỉ giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án của tòa án nhân dân cấp huyện) bởi UBTP vẫn tồn tại ở TAND các tỉnh, đã thực hiện chức năng này theo luật tổ chức TAND năm 2002. Tăng thẩm quyền kháng nghị Giám đốc thẩm, tái thẩm cho Chánh án TAND tỉnh.

- Tiếp tục thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán vững vàng về bản lĩnh chính trị, gỏi về nghiệp vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý. Xử lý nghiêm minh đối với thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký khi có vi phạm theo quyết định 120/QĐ-TA của chánh án TANDTC. Bên cạnh đó cải cách chế độ tiền lương, chính sách ưu tiên đối với các thư ký, thẩm tra viên đang hoạt đông ở TAND cấp cao. Đồng thời biểu dương, suy tôn, vinh danh đổi với cá nhân có thành tích trong xét xử các vụ án lớn, điển hình, dư luận quan tâm có kết quả cao, có cách làm hay giải quyết đước số lương lớn đơn đề nghị GĐT, TT. Các thẩm phán có các bản án mẫu mực được chọn làm án lệ

3.2.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

- Tổ chức phiên tòa trực tuyến, thí điểm xét xử trực tuyến một số loại án như các vụ án có nội dung đơn giản, tình tiết rõ ràng nhằm rút ngắn thời gian,

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 25/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí