Để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân cần quán triệt những quan điểm sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân, nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung, với Tòa án nhân dân nói riêng là toàn diện và tuyệt đối. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án nhân dân không có nghĩa là tổ chức Đảng, Đảng viên can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, quyết định chấp nhận hay không chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự hoặc chỉ đạo việc ra bản án, quyết định bảo vệ cho nguyên đơn, hay bị đơn. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện bằng đường lối xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, bằng việc chủ trương ban hành các quy phạm pháp luật đúng đắn, kịp thời, bằng phương hướng đổi mới, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân làm sao có hiệu quả hơn, bản án, quyết định của Tòa án tuyên ngày càng có chất lượng. Đường lối chủ trương, chính sách của Đảng về việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân có đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cách mạng của người Thẩm phán.
Hai là, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân phải gắn liền với việc thực hiện đồng bộ các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung và nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng tại Tòa án nhân dân, không thể tách rời với các nội dung của việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phải có một hệ thống pháp luật đầy đủ có tính khả thi cao và ổn định. Trong lĩnh vực đất đai cũng cần có sự quan tâm thoả đáng trong việc xây dựng mới, hoặc bổ sung sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cho phù hợp với
tình hình mới của đất nước. Chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân gắn liền với chất lượng hoạt động của cơ quan khác, vì vậy để cải cách tư pháp có hiệu quả Đảng và Nhà nước ta chủ trương củng cố tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cải cách nền hành chính Nhà nước, đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức. Tất cả những yêu cầu, nội dung trên phải được thực hiện một cách đồng bộ và có những bước đi thích hợp.
Ba là, đổi mới công tác xét xử của Tòa án nhân dân theo hướng mở rộng dân chủ, tranh luận tại phiên tòa, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp, vì vậy việc nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng tại Tòa án nhân dân chính là một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án, đảm bảo chất lượng ban hành các bản án, quyết định theo đúng pháp luật. Coi trọng và mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo đường lối của Đảng cũng là một trong những nội dung thiết thực để thực hiện dân chủ trong hoạt động áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 7
- Nguyên Nhân Hạn Chế Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất
- Quan Điểm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân
- Nâng Cao Phẩm Chất Chính Trị, Phẩm Chất Đạo Đức Cho Đội Ngũ Thẩm Phán, Thẩm Tra Viên - Lực Lượng Chủ Yếu Thực Hiện Hoạt Động Áp Dụng Pháp
- Bồi Dưỡng, Tổ Chức Lại Lực Lượng Hội Thẩm Nhân Dân Để Đáp Ứng Yêu Cầu Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 13
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Bốn là, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án phải gắn với nghĩa vụ phổ biến tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
Như phân tích ở trên, pháp luật nước ta về đất đai không ổn định và quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành vì vậy áp dụng pháp luật trong phiên tòa giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất không chỉ có tác dụng giáo dục ý thức tuân theo pháp luật của nhân dân mà còn giáo dục họ ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
3.2.1. Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp. Do vậy, hoạt động của Tòa án nhân dân cũng như hoạt động của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước ta đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước trên cả ba phương diện: tư tưởng, tổ chức và cán bộ. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tư pháp ngày càng đạt chất lượng cao hơn và luôn đúng phương hướng vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất không có nghĩa là tổ chức đảng và đảng viên can thiệp vào hoạt động vào hoạt động áp dụng pháp luật, quyết định thay cho Toà án. Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng chủ trương đường lối xét xử, bằng phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp sao cho ngày càng có hiệu quả hơn và chất lượng áp dụng pháp luật ngày càng tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị, ý thức giác ngộ cách mạng của người cán bộ tư pháp nói chung, người cán bộ Tòa án nói riêng luôn được giữ vững và nâng cao trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu đoàn kết nhất trí trong các tổ chức đảng tại các đơn vị Tòa án luôn là đòi hỏi quan trọng. Các tổ chức đảng trong cơ quan Tòa án đã làm tốt công tác lãnh đạo giáo dục về tư tưởng cho các đảng viên, cán bộ Tòa án. Hiện nay ở Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đều có Ban cán sự Đảng để lãnh đạo toàn diện các mặt công tác của toàn ngành cũng như của từng đơn vị. Những chủ trương lớn của Đảng đều được ngành Tòa án nhân dân khẩn trương quán triệt một cách nghiêm túc. Trên cơ sở các chủ trương đó, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao đã có chương trình và kế hoạch hoạt động cụ thể nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả trong toàn ngành Tòa án nhân dân, đảng viên của ngành Tòa án nhân dân luôn tuyệt đối trung thành với các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống giản dị, có tinh thần vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ
Trong 10 năm gần đây, các tổ chức Đảng trong ngành Tòa án nhân dân đã kết nạp được trên 1.600 đảng viên, có 4.224 lượt chi bộ ngành Tòa án được xếp loại chi bộ trong sạch vững mạnh và 16.257 đảng viên ngành Tòa án được công nhận đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Riêng Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao, nhiều năm được đánh giá Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Nhiều đảng viên thuộc Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao đã được Đảng ủy khối các cơ quan nội chính tặng bằng khen về những thành tích xây dựng Đảng [39, tr. 191].
Thực tế cho thấy trong thời gian qua, các Tòa án đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện đối với công tác Tòa án, đặc biệt là công tác xét xử và công tác cán bộ. Các Tòa án đã thực hiện chế độ báo cáo cấp ủy đảng theo định kỳ về công tác Tòa án để xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy đảng về định hướng công tác Tòa án. Các cấp ủy đảng cho ý kiến và chỉ đạo việc giải quyết những vụ án phức tạp, nhạy cảm về chính trị, các vụ án liên quan đến an ninh quốc gia, tôn giáo, vụ án lớn trọng điểm và vụ việc nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Các cấp ủy đảng luôn chăm lo công tác cán bộ của Tòa án, nhất là công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ, tuyển chọn Thẩm phán, bố trí sử dụng đúng cán bộ của các Tòa án. Các cấp ủy đảng định hướng, giới thiệu các đồng chí đảng viên đủ tư cách, trình độ, năng lực uy tín, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị bầu vào cấp ủy, và được giữ chức vụ lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp.
Như vậy, nhờ sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức hoạt động của các Tòa án theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị (khóa IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010 và việc triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết này nên các mặt công tác của Tòa án trong những năm qua đã được nâng lên. Số vụ, việc có oan, sai đã được khống chế và và giảm thiểu đến mức thấp nhất. Các vụ án lớn, trọng điểm đã được đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trong thời gian tới, ngành Tòa án nhân dân cần tập trung hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp theo Nghị quyết số 08, chú trọng đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ đang triển khai như nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa, tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện, xây
dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch, vững mạnh, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Tòa án các cấp, đẩy mạnh xây dựng pháp luật, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân là lĩnh vực rất nhạy cảm và phức tạp hiện nay, hơn nữa trong điều kiện pháp luật chưa hoàn thiện, chưa cụ thể. chưa bao quát hết mỗi tình huống trong thực tiễn vì thế Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác này đối với Tòa án nhân dân, nhất là quan điểm chỉ đạo giải quyết đảm bảo nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
3.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật và tăng cường hướng dẫn, giải thích kịp thời các văn bản pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Nghị quyết số 48-NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã nêu rõ "nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý chưa được coi trọng đổi mới hoàn thiện. Tiến độ xây dựng pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao" [8]. Một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân không chỉ đòi hỏi có một hệ thống pháp luật đồng bộ thống nhất và hoàn thiện mà còn phải có chất lượng cao và ổn định để thực sự trở thành những nguyên tắc xử sự chung, mẫu mực. Để áp dụng pháp luật tốt trước hết cần phải có quy phạm pháp luật tốt. Chúng tôi cho rằng đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất bởi lẽ khi Nhà nước xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể và có chất lượng sẽ là cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân áp dụng pháp luật thống nhất và có hiệu quả cao. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới theo đường lối sáng suốt của Đảng. Nhiều quan hệ xã hội mới hình thành và phát triển cùng với sự thay đổi một số chính sách cụ thể trong khi văn bản quy phạm pháp luật lại có tính khái quát cao, định ra những quy luật chung nhất và phổ biến nhất từ những vấn đề cụ thể. Vì vậy, Luật sau khi ban hành chậm đi vào cuộc sống, phải chờ nghị định, thông tư hướng dẫn quy định cụ thể. Do đó, theo chúng tôi, Luật chỉ nên quy định những vấn đề chung và những vấn đề cụ thể mang tính ổn định, còn những vấn đề biến động thì nên để cho các văn bản dưới Luật quy định và cơ
quan soạn thảo luật cần chuẩn bị các văn bản thi hành luật ngay khi trình thông qua văn bản luật. Có như vậy thì văn bản luật mới có điều kiện để đi ngay vào cuộc sống ngay khi ban hành. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm đến công tác giải thích chính thức pháp luật để tạo ra cách hiểu chính xác và thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Với một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, được hướng dẫn thi hành một cách thống nhất, kịp thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội thì việc áp dụng pháp luật nói chung, áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân nói riêng sẽ được thực hiện tốt, chất lượng giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất được nâng cao. Trong những năm qua, ngành Tòa án nhân dân đã thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Những dự án luật, pháp lệnh được Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công chủ trì soạn thảo đều được ngành Tòa án nhân dân thực hiện đúng tiến độ, đạt chất lượng cao. Trong công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, ngành Tòa án nhân dân luôn chủ động phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất trong toàn ngành. Đặc biệt trong những năm gần đây khi hệ thống pháp luật của Nhà nước ta có nhiều sửa đổi, bổ sung, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều thông tư, nghị quyết hướng dẫn kịp thời góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án. Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao còn ban hành hàng nghìn văn bản trao đổi nghiệp vụ để giúp các Tòa án địa phương áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong từng lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dân sự. Cùng với việc đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật ngành Tòa án nhân dân còn rất quan tâm tới công tác tập huấn các văn bản pháp luật mới trong toàn ngành, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Thực tế áp dụng pháp luật cho thấy các quy phạm pháp luật được xây dựng trên cơ sở khái quát các hành vi của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, nội dung của các quy phạm pháp luật không phải lúc nào cũng rõ ràng dễ hiểu và hoàn toàn sát hợp với tình huống phát sinh trong cuộc sống, vì vậy cần có hoạt động giải thích pháp luật. Thực tế cho thấy dù hiến pháp, luật có ghi nhận hay không thì trong lịch sử tư pháp của Việt Nam, Tòa án luôn có vai trò lớn trong việc giải thích pháp luật qua các Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán và các công văn hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định "Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này" [38]. Do vậy, dẫn đến việc chính thức thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp như là một nguồn luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thừa nhận tập quán pháp và tiền lệ pháp dẫn đến thừa nhận quyền giải thích luật của Tòa án. Luật ban hành văn bản pháp luật đã chính thức thừa nhận Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là văn bản quy phạm pháp luật.
Để nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp dân sự nói chung, tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng thì việc hướng dẫn áp dụng thống nhất một số quy định của Luật đất đai năm 2003 và một số nghị định của chính phủ liên quan đến đất đai là rất quan trọng. Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 nhưng còn có nhiều điều, khoản cần hướng dẫn thi hành ngay như Điều 203 về thời hiệu khởi kiện đối với các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, hướng xử lý đối với đất đã giao cho người khác sử dụng trước ngày Luật đất đai năm 1993 có hiệu lực.
Như trên đã phân tích, thực tế giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất cho thấy còn nhiều vướng mắc về quan điểm đường lối xét xử, về việc áp dụng pháp luật. Vì vậy, để nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất,Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất với một số nội dung cơ bản như sau:
Vấn đề thứ nhất: về thẩm quyền, theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 thì:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết [24].
Nếu đương sự khởi kiện tại Tòa án đòi quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 thì người khởi kiện phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai. Do đó, trong trường hợp người khởi kiện không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai thì họ không có quyền khởi kiện.
Đối với trường hợp người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai hoặc có tranh chấp về quyền sử dụng đất với cá nhân hoặc tổ chức khác mà diện tích đất tranh chấp không nằm trong diện tích đất mà người đó được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phần đất tranh chấp này chưa được cấp chứng nhận và không có tài sản trên đất đó), thì tranh chấp quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân.
Như vậy, Tòa án nhân dân chỉ giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp quyền sử dụng đất khi có đủ hai điều kiện: thứ nhất là người khởi kiện là người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai; thứ hai là diện tích đất đang tranh chấp là đối tượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai mà người khởi kiện đứng tên.
Đối với trường hợp người khởi kiện có đơn yêu cầu đòi lại đất mà Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội đã quản lý, sử dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 và khoản 1 Điều 4 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 2003 và đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì cần xác định bản chất của việc đòi lại đất này là khiếu nại đòi lại quyền sử dụng đất, trường hợp này thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân.
Vấn đề thứ hai: đối với trường hợp đương sự có đơn gửi Tòa dân sự khiếu nại Quyết định của ủy ban nhân dân giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc khiếu nại