Quan Điểm Nâng Cao Chất Lượng Áp Dụng Pháp Luật Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Quyền Sử Dụng Đất Tại Tòa Án Nhân Dân

Trong tình hình hiện nay có một số không ít Thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp hiện còn đi học văn hóa nghiệp vụ, chính trị, tin học, ngoại ngữ để đạt tiêu chuẩn về trình độ theo yêu cầu mới. Do vậy, số lượng vụ án phải giải quyết thực sự đối với Thẩm phán trực tiếp xét xử còn cao hơn nhiều so với tỷ lệ vụ án bình quân khi lấy tổng số vụ án chia cho tổng số Thẩm phán hiện có. Việc để các vụ án tồn đọng, quá hạn luật định ở nhiều Tòa án là do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân do thiếu Thẩm phán. Do phải xét xử nhiều vụ án trong một tháng nên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có khi chưa kỹ. Những vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất rất phức tạp cần phải tìm hiểu nhiều loại văn bản và các văn bản qua từng thời kỳ cũng khác nhau, nên việc lựa chọn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu dồn vào Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong khi đó các Thẩm phán cánh gà cùng tham gia xét xử không có thời gian để nghiên cứu hồ sơ. Tình trạng sáng chuẩn bị, chiều xét xử, tất bật căng thẳng mệt mỏi ở Thẩm phán không phải là trường hợp cá biệt. Với số lượng án được giao phải giải quyết, với tính chất phức tạp của vụ án ngày càng tăng đã ảnh hưởng đến chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử.

Các biểu hiện cụ thể của việc yếu kém về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình áp dụng pháp luật của Thẩm phán thường xảy ra ở khâu nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ở khâu tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để ban hành các bản án, quyết định của Tòa án. Sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán thường đi đôi với phong cách làm việc cẩu thả, thiếu trách nhiệm khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do yếu kém về nghiệp vụ nên Thẩm phán đã không xác định được chứng cứ nào là quan trọng có ý nghĩa then chốt, trọng tâm của vụ án để đánh giá chứng cứ và phán quyết. Sự yếu kém của Thẩm phán khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất thể hiện ở việc không hệ thống được một cách lôgíc diễn biến khách quan quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, không phát hiện ra các chứng cứ mâu thuẫn không đáng tin cậy để đối chứng so sánh, đánh giá và thẩm tra theo quy định của pháp luật. Mặt khác, sự yếu kém còn thể hiện ở việc không cập nhật các văn bản, thông tin về lĩnh vực đất đai, dễ bỏ qua các tài liệu chứng cứ có giá trị pháp lý, có ý nghĩa chứng minh để giải quyết vụ án một cách đúng đắn theo quy định của pháp luật. Trình độ năng lực nghề nghiệp yếu kém của Thẩm phán ngoài việc

không đánh giá được chứng cứ còn thể hiện ở việc tìm hiểu, lựa chọn quy phạm pháp luật không chính xác, không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.

Thứ năm, hạn chế bất cập trong chế định hội thẩm nhân dân.


Hội thẩm nhân dân có vị trí quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động tư pháp. Cùng với Thẩm phán Tòa án các địa phương trong những năm qua, Hội thẩm nhân dân đã xét xử hàng trăm nghìn vụ án các loại theo thủ tục sơ thẩm. Nhiều Hội thẩm nhân dân phát huy có hiệu quả vai trò của mình và đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, bên cạnh việc tiếp tục khẳng định và thực hiện tốt nguyên tắc "Tòa án xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia", "khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán"

[25] thì chế định Hội thẩm nhân dân cần được nghiên cứu để khắc phục những bất cập, giảm thiểu những ảnh hưởng không tốt đến chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân. Qua thực tế xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm cho thấy trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao để thực hiện "ngang quyền với Thẩm phán". Tỷ lệ Hội thẩm nhân dân chiếm đa số trong Hội đồng xét xử nhưng chế độ trách nhiệm không rõ ràng chính vì vậy sự tham gia của họ mang nặng tính hình thức. Do không có trình độ nên họ dựa dẫm, ỷ lại vào Thẩm phán hoặc có ý kiến khác với Thẩm phán nhưng không thể hiện được tính đúng đắn của việc nhận thức pháp luật. Thành phần tham gia Hội thẩm nhân dân Tòa án rất đa dạng như giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ tổ dân phố, cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ và cán bộ đương chức ở cơ quan hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên vì nhiều lý do, họ không tham gia xét xử được gây khó khăn cho việc mở phiên tòa. Có Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện phải hoãn phiên tòa vì Hội thẩm nhân dân bận công tác đột xuất không thể tham gia xét xử, có những hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện khi mở phiên tòa thư ký Tòa án phải lên đồng tìm họ về vì hội thẩm này đang đi cấy, có những hội thẩm nhân dân có tên trong danh sách nhưng không tham gia xét xử một vụ án nào trong cả nhiệm kỳ. Vì không có hình thức tập hợp, sinh hoạt nên các Hội thẩm Tòa án nhân dân ít có điều kiện học tập, trao đổi kinh nghiệm xét xử về các vấn đề nghiệp vụ. Hội thẩm nhân dân chỉ làm việc với nhau khi được phân công xét xử cùng một hội đồng. Kết quả xét xử sau khi Tòa án tuyên án sơ thẩm cũng đồng nghĩa với việc kết thúc

nhiệm vụ của người Hội thẩm nhân dân đó đối với vụ án, họ không hề quan tâm đến kết quả xét xử. Trong trường hợp bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị và cấp trên có cải sửa thì Hội thẩm nhân dân cũng không chịu trách nhiệm.

Pháp luật hiện hành quy định về tiêu chuẩn về trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân không cao, chỉ cần có kiến thức pháp luật, tức là có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định là có thể được bầu vào Hội thẩm nhân dân vì vậy Hội thẩm nhân dân "ngang quyền" với Thẩm phán là rất khó khăn. Những vấn đề về chuyên môn trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất không được các Hội thẩm nhân dân hiểu một cách thấu đáo như: khi hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như thế nào? Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã qua từng thời kỳ có phù hợp với pháp luật của từng thời kỳ đó không? Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã đảm bảo về nội dung, hình thức theo quy định của pháp luật không? Do không có điều kiện để hiểu được những vấn đề chuyên sâu về pháp luật đất đai như vậy nên người Hội thẩm nhân dân phải dựa vào ý kiến của Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa. Vì vậy, trách nhiệm xét xử dồn hết vào một người Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa) từ khâu nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử, thẩm vấn tại phiên tòa, nghị án, tuyên bản án, quyết định.

Nguyên tắc "Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số", và nguyên tắc "khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán" [25] khi giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất chưa thực sự chính xác, có sức thuyết phục. Cũng chính từ sự bất cập về trình độ pháp lý của Hội thẩm nhân dân, ở một số ít vụ án do Hội thẩm nhân dân không hiểu biết pháp luật về đất đai, lại có đương sự là người thân quen của hội thẩm nên có ý kiến khác với Thẩm phán, vì hội thẩm là đa số nên buộc Thẩm phán phải tuyên bản án theo đa số không đúng pháp luật sau đó mới báo cáo với Tòa án cấp trên xem xét kháng nghị. Một vụ án bị cải, sửa, hủy thì trách nhiệm của Thẩm phán được quy định khá rõ ràng và nghiêm khắc, còn trách nhiệm của người hội thẩm thì chưa rõ ràng. Mặt khác, đòi hỏi đối với công tác xét xử ngày càng cao, Hội đồng xét xử phải có kiến thức chuyên sâu, áp dụng pháp luật một cách chính xác, các bản án, quyết định của Tòa án phải đảm bảo chất lượng không được để xảy ra tình trạng oan, sai, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Thứ sáu, có hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của ngành Tòa án nhân dân


Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay - 9

Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ rõ đội ngũ cán bộ Tòa án hiện vẫn còn thiếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ công chức còn yếu; thậm chí có những cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp nên có vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật hình sự làm ảnh hưởng không tốt đến uy tín của ngành Tòa án nhân dân. Trong năm qua (2005) có 21 cán bộ Tòa án bị xử lý kỷ luật, trong đó có 9 Thẩm phán. Trong số 21 trường hợp bị xử lý kỷ luật có 4 trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự [37].

Thực tế công tác ngành Tòa án trong những năm qua cho thấy hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi đã và đang tấn công vào hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp trong đó có Tòa án. Tham nhũng trong hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp đang là vấn đề nhức nhối ảnh hưởng đến uy tín của ngành. Vì những lý do khác nhau, một số cán bộ, công chức đã không cưỡng lại được những cám dỗ vật chất. Tuy con số Thẩm phán, thư ký Tòa án, Hội thẩm Tòa án nhân dân bị xử lý là rất ít so với tổng số Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội thẩm Tòa án nhân dân trong cả nước nhưng lại gây ra tiếng xấu cho ngành, cho hoạt động áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nhân dân. Khi giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất, sự thắng thua trong vụ án ảnh hưởng lớn tới các đương sự, vì vậy việc áp dụng pháp luật để phân định yêu cầu của bên nào có căn cứ pháp luật, bên nào không có căn cứ pháp luật để quyết định tài sản là của bên nào có ý nghĩa vô cùng quan trọng đòi hỏi người Thẩm phán phải thật công tâm, khả năng nhanh nhạy, chính xác trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật, trong việc xem xét đánh giá chứng cứ. Nếu coi việc áp dụng pháp luật để phân xử, ra bản án quyết định là một sự "ban ơn" cho đương sự để vòi vĩnh thì chắc chắn việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất sẽ bị biến dạng, méo mó. Đất đai, nhà cửa của người này lại quyết định cho người khác. Nếu tác hại của nạn hối lộ, tham nhũng trong mọi mặt của đời sống xã hội là nghiêm trọng thì tác hại của nạn hối lộ trong việc áp dụng pháp luật khi xét xử do Thẩm phán thực hiện còn nghiêm trọng gấp nhiều lần. Bởi vì khi người Thẩm phán nhận tiền, của, vật chất của đương sự thì phải tìm cách giải quyết có lợi cho họ vì thế

quyền và lợi ích hợp pháp của họ được bảo vệ một cách triệt để, còn những người nghèo không có khả năng tài chính để "chạy án" sẽ phải gánh chịu những phán quyết bất lợi hoặc thậm chí bị "trắng tay". Điều đó không chỉ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân (lẽ ra được pháp luật bảo vệ) mà còn làm cho công lý không được thực hiện, trật tự xã hội, công bằng xã hội bị đảo lộn và điều quan trọng hơn là người dân mất lòng tin vào ngành Tòa án nhân dân.

Ngoài ra, nếu người Thẩm phán không có quan điểm chính trị rõ ràng, không cương quyết bảo vệ pháp luật, không chí công vô tư sẽ rất dễ bị tác động bởi những người có chức vụ quyền hạn, những người thân quen dẫn đến sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. Thực tiễn việc xét xử vụ án tham nhũng đất đai ở Đồ Sơn - Hải Phòng đã gây nhiều bức xúc trong xã hội. Đây là bài học lớn về tính "độc lập xét xử" của Tòa án. Quá trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất cho thấy có những vụ việc người có chức vụ quyền hạn hoặc những người trong gia đình họ nhờ Thẩm phán quan tâm, thậm chí có những vụ tuy họ không nhờ "quan tâm" nhưng người Thẩm phán vì nể nang, nên đã không khách quan, vô tư và công tâm khi xét xử. Mặt khác, người thẩm phán ngoài quan hệ công tác còn có tất cả các mối quan hệ xã hội bình thường như tất cả các những người khác trong xã hội như người thân trong gia đình, bạn bè, dòng họ, xóm làng, đồng nghiệp. Việc nhờ vả quan tâm giải quyết những vụ tranh chấp có lợi cho mình thường xảy ra, là lẽ thường tình trong cuộc sống. Nếu người Thẩm phán không vững vàng, không kiên quyết bảo vệ pháp luật thì việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp sẽ không còn đúng đắn, các bản án, quyết định không đạt được các chuẩn mực cần thiết. Trong bức thư viết cho ngành Tòa án, đồng chí Trần Đức Lương - ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước đã viết:

Mỗi phán quyết của các đồng chí không chỉ là việc làm rõ đúng sai đối với bên nguyên, bên bị trong vụ án, mà đồng thời phải là bài học cho mỗi cá nhân và tổ chức biết tự bảo vệ quyền tự do dân chủ cho chính mình và toàn thể cộng đồng xã hội. Do đó, dư luận luôn theo dõi sát sao công việc của các đồng chí. Những khuyết điểm, yếu kém dù là nhỏ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong các Tòa án đều có tác hại rất lớn. Trong thời gian qua còn

một số vụ án chất lượng xét xử kể cả sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm chưa đủ mức thuyết phục công luận, thậm chí còn có sai sót, một số bản án, quyết định bị cải, sửa (nhất là đối với các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình) không phải là ít... Các đồng chí thảo luận thật sâu sắc, tìm cho được nguyên nhân đích thực để có biện pháp đề xuất với Nhà nước hoặc các đồng chí chủ động tổ chức thực hiện để khắc phục bằng được thiếu sót khuyết điểm đang được trung ương Đảng, quốc hội và công luận nhắc nhở, lưu ý. Đặc biệt phải cương quyết xử lý thật nghiêm minh những phần tử thoái hóa biến chất, cố tình xử sai, xử oan do động cơ không đúng đắn, do làm bừa, làm ẩu. Còn nếu do trình độ nghiệp vụ non kém, chủ quan, phiến diện một chiều thì cũng phải kiểm điểm nghiêm túc làm rõ đúng sai để rút kinh nghiệm và có biện pháp giáo dục [39, tr. 90].


Kết luận chương 2


Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn song ngành Tòa án nhân dân đã khắc phục khó khăn giành nhiều thắng lợi. Ngành Tòa án nhân dân đã giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Trong công cuộc cải cách từ pháp ngành Tòa án nhân dân đã bám sát nhiệm vụ chính trị đã được xác định trong các Nghị quyết của Đảng, phục vụ kịp thời các yêu cầu mới, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong hoạt động xét xử việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung, các vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng đã được hội đồng xét xử lựa chọn và áp dụng một cách đúng đắn. Bản án quyết định của Tòa án đã thể hiện rõ nét yêu cầu coi trọng tranh tụng tại Tòa theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị. Bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm nhất định trong việc áp dụng pháp luật khi Tòa án tiến hành giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những nhược điểm trên ngoài nguyên nhân khách quan như văn bản pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân khi tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn hạn chế, còn do các nguyên nhân chủ quan. Đó là sự yếu kém trong việc học tập, rèn luyện trình độ nghiệp vụ ở một số Thẩm phán,

trình độ, năng lực xét xử của các Thẩm phán chưa ngang tầm với nhiệm vụ mới, việc rèn luyện tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán còn yếu. Tuy nhiên, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, với sự cố gắng khắc phục những thiếu sót của toàn bộ cán bộ công chức ngành Tòa án, chúng ta hoàn toàn có cơ sở tin tưởng vào sự trong sạch, sáng suốt công minh của những người "cầm cân nảy mực" trong việc lựa chọn và áp dụng đúng các quy phạm pháp luật để việc giải quyết các vụ án dân sự nói chung, các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng của Tòa án nhân dân được chính xác, đúng pháp luật góp phần xứng đáng vào công cuộc cải cách tư pháp.

Chương 3


quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các

tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân


3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ:

Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Coi trọng việc hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy quan hệ dân sự phát triển lành mạnh, hoàn thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ, chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình [10].

Đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật chính là quan điểm cơ bản để nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí