Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 6


Bộ máy kiểm toán nói chung và bộ máy KTNB nói riêng không thể tổ chức theo một khuôn mẫu máy móc mà phải căn cứ vào cấp quản lý, hình thức sở hữu, trình độ quản lý và điều kiện kinh tế xã hội. Hơn nữa, khi đã nói tới con người là nói tới các quan hệ xã hội, đến truyền thống văn hóa cụ thể, do đó tổ chức bộ máy KTNB không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Tính khoa học của tổ chức bộ máy kiểm toán đòi hỏi phải tạo những mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố trong một phân hệ, giữa các phân hệ với hệ thống, giữa bản thân hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác và giữa hệ thống với môi trường hoạt động. Tính nghệ thuật trong tổ chức bộ máy KTNB đòi hỏi phải xử lý các mối liên hệ này thật mềm dẻo và linh hoạt nhằm thích ứng với từng điều kiện cụ thể về nhân sự, thiết bị, môi trường thực hiện và đặc trưng các liên kết trong tập đoàn.

Như vậy, tổ chức KTNB trong tập đoàn kinh tế đặt ra yêu cầu xác định các nguyên tắc trong tổ chức bộ máy, các mô hình tổ chức trong hàng loạt các mối liên hệ trong và ngoài hệ thống, xác định điều kiện và mục tiêu, phương thức vận hành hệ thống nhằm đạt được mục tiêu xác định. Giống như mô hình tổ chức nói chung đã được phân tích ở phần trên, tổ chức KTNB trong tập đoàn kinh tế được cụ thể hóa trên hai nội dung cơ bản là tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy KTNB.

1.2.2. Quy trình tổ chức công tác kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế

Như trên đã phân tích, tổ chức công tác KTNB hướng đến mục tiêu là tạo ra mối liên hệ khoa học và nghệ thuật giữa các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán nhằm thực hiện các chức năng của KTNB là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn. Mối liên hệ khoa học giữa các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán đòi hỏi KTNB phải xây dựng quy trình tổ chức công tác KTNB theo quy trình chung của kiểm toán. Hơn nữa, tính nghệ thuật của tổ chức KTNB đòi hỏi phải xây dựng linh hoạt và mềm dẻo trình tự thực hiện KTNB phù hợp với từng doanh nghiệp thành viên được kiểm toán và từng thời kỳ cụ thể. Tổ chức công tác KTNB trong tập đoàn mang những nét đặc trưng riêng xuất phát từ các đặc điểm của tập đoàn kinh tế.

Phương thức xây dựng quy trình KTNB trong tập đoàn kinh tế mang đặc trưng riêng: Đặc điểm của các tập đoàn là nhóm các doanh nghiệp với các mối liên kết phức tạp do đó việc xác định phương thức xây dựng quy trình càng trở nên cần thiết. Thông thường, có thể sử dụng một trong hai phương thức sau để xây dựng quy trình kiểm toán. Thứ nhất, tập đoàn thành lập bộ phận nghiên cứu và xây dựng quy


trình KTNB cho từng lĩnh vực cụ thể. Sau khi xây dựng tiến hành đưa quy trình ra vận dụng thử nghiệm với một số đơn vị thành viên trong tập đoàn, xác định mức độ phù hợp của quy trình đối với các đội tượng kiếm toán khác nhau; từ đó điều chỉnh quy trình và chính thức ban hành. Phương thức này giúp tập đoàn xây dựng được quy trình kiểm toán có tính khoa học cao. Tuy nhiên, xây dựng theo phương thức này đòi hỏi tốn kém thời gian và chi phí lớn, đồng thời phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ cao thực hiện công việc. Thứ hai, tập đoàn tiến hành xây dựng quy trình KTNB dựa trên kinh nghiệm thực tế của các cuộc kiểm tra, kiểm soát hoặc các cuộc KTNB đã thực hiện. Căn cứ vào kinh nghiệm thực tế, xác định những công việc và thủ tục áp dụng phù hợp với thực tế và yêu cầu quản lý. Phương thức này được các tập đoàn áp dụng rất nhiều do đòi hỏi chi phí không lớn, quy trình KTNB được thay đổi kịp thời với những thay đổi của tập đoàn. Tuy nhiên, phương thức này có nhược điểm là chưa thể có ngay được một quy trình KTNB có tính khoa học cao.

Quy trình KTNB trong tập đoàn kinh tế dựa trên quy trình chung của kiểm toán: Quy trình kiểm toán là trình tự và nội dung cụ thể của các bước công việc của cuộc KTNB nhằm giúp KTVNB tập hợp đủ thông tin thực hiện chức năng xác nhận, kiểm tra, đánh giá và tư vấn. Trình tự các bước công việc của KTNB bao gồm lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, thông báo kết quả kiểm toán (lập báo cáo hay biên bản kiểm toán) và quá trình giám sát. Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán bao gồm tất cả các công việc khác nhau nhằm tạo được cơ sở pháp lý, lập kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật chất cho công tác kiểm toán. Bước 2: Thực hiện kế hoạch kiểm toán và việc thực các công việc trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán nhằm thực hiện các chức năng của kiểm toán. Bước 3: Lập báo cáo hay biên bản kiểm toán nhằm đưa ra kết luận của KTNB về đối tượng được kiểm toán. Bước 4: Là một bước công việc mang đặc trưng riêng của KTNB đó là theo dõi sau kiểm toán và giám sát việc thực hiện các kết luận của KTNB. Có thể khái quát quy trình tổ chức công tác KTNB theo sơ đồ sau:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.


Chuẩn bị kiểm toán nội bộ

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 6

Thực hiện kế hoạch kiểm toán nội bộ

Kết thúc kiểm toán nội bộ

Kiểm tra thực hiện kết luận kiểm toán nội bộ


Sơ đồ 1.2: Quy trình kiểm toán nội bộ


KTNB trong tập đoàn kinh tế cũng áp dung quy trình chung của KTNB trong các doanh nghiệp nhưng mỗi bước công việc sẽ mang những nét đặc thù theo đặc điểm riêng của tập đoàn kinh tế.


Giai đoạn I: Chuẩn bị KTNB


Ở giai đoạn này, lập kế hoạch KTNB là công việc chủ yếu mà các KTV sẽ tập trung thực hiện. Lập kế hoạch KTNB là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác KTNB nhằm tạo ra tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi thực hiện kế hoạch KTNB. Đây là bước công việc mang tính quyết định đến chất lượng của cuộc KTNB.

Kế hoạch KTNB là một dự án tổng thể bao gồm mục tiêu của cuộc kiểm toán, thời gian, phạm vi công việc, phương pháp KTNB. Lập kế hoạch kiểm toán là quá trình cân đối tích cực giữa nội dung, thời gian, phạm vi, phương pháp và các nguồn lực thực hiện kiểm toán nhằm đảm báo cho việc thực hiện cuộc kiểm toán tiết kiệm và hiệu quả. Lập kế hoạch kiểm toán gồm các bước công việc sau: lập kế hoạch kiểm toán năm, lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB và thiết kế chương trình KTNB.

Bước 1: Lập kế hoạch KTNB năm

Kế hoạch KTNB năm bao gồm các định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp cận chung của các cuộc KTNB trong năm. Kế hoạch kiểm toán lập trên cơ sở đánh giá thông tin tổng quát về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Bản kế hoạch năm giúp KTVNB dự tính và tổng hợp được khối lượng công việc cần thực hiện. Kế hoạch KTNB năm do người phụ trách bộ phận KTNB lập và trình ban giám đốc hoặc ủy ban kiểm toán phê duyệt. Kế hoạch KTNB năm của tập đoàn phải xét đến nhiều yếu tố khác nhau như chiến lược hoạt động chung của toàn bộ tập đoàn, chiến lược hoạt động cụ thể của từng doanh nghiệp thành viên và môi trường hoạt động. Nội dung của kế hoạch KTNB năm thường bao gồm:

Thứ nhất: Xác định mục tiêu KTNB là xác định những vấn đề cần đạt được khi thực hiện KTNB. Các mục tiêu kiểm toán không phải là cái bất biến áp dụng cho mọi cuộc kiểm toán mà sẽ phải biến đổi tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Mục tiêu này thường được xác định trên cơ sở yêu cầu của hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc tập đoàn. Việc xác định mục tiêu kiểm toán có ý nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ quy trình lập kế hoạch kiểm toán. Mục tiêu KTNB phụ thuộc vào mong muốn của nhà quản lý đối với toàn bộ tập đoàn và đối với từng đơn vị thành viên trong tập


đoàn. Hơn nữa, xác định mục tiêu KTNB còn phải căn cứ vào phương thức có thể thực hiện để KTNB, nguồn lực phục vụ cho kiểm toán. Cụ thể hơn, KTVNB cần quan tâm đến những vấn đề sau khi xác định mục tiêu kiểm toán: Trước hết, KTNB phải xác định hình thức hỗ trợ quản lý và cấp hỗ trợ quản lý. Hình thức hỗ trợ quản lý có thế là đánh giá tuân thủ trong đơn vị hay có thể nâng lên một hình thức cao hơn là tìm các giải pháp nhằm cải tiến hoạt động hoạt động cụ thể. Thậm chí, KTNB có thể lựa chọn một hình thức cao hơn nữa là đánh giá không chỉ các hoạt động cụ thể mà có thể đánh giá chiến lược hoạt động của toàn tập đoàn và chiến lược hoạt động của từng đơn vị thành viên. Trong xây dựng mục tiêu kiểm toán, KTNB cần xem xét đến phạm vi KTNB. Để thực hiện được các giai đoạn kế tiếp của cuộc kiểm toán, KTNB cần có sự độc lập khi tiếp xúc với các bộ phận khác nhau trong nghiệp vụ của các doanh nghiệp thành viên tập đoàn đồng thời có quyền được báo cáo tất cả các vấn đề thuộc về lợi ích của doanh nghiệp đó liên quan đến các doanh nghiệp khác trong tập đoàn. Mục tiêu của KTNB còn bao hàm chất lượng phục vụ quản lý của cuộc kiểm toán, chất lượng KTVNB. Khi xây dựng hệ thống mục tiêu kiểm toán, cần quan tâm đến ngân sách cho hoạt động kiểm toán và khả năng phát triển năng lực của đội ngũ nhân viên thực hiện KTNB. Ngân sách hoạt động kiểm toán cần phải có sự cân nhắc dựa trên trọng tâm kiểm toán đối với từng loại hình kiểm toán và đối với từng loại khách thể kiểm toán trong tập đoàn.

Thứ hai: Xây dựng chiến lược kiểm toán. Theo thuật ngữ của quản lý, chiến lược thường dài hạn và mang tính định hướng. Chiến lược biểu thị những phương pháp tiếp cận hướng đến các mục tiêu lâu dài trên cơ sở các mục tiêu đề ra. Khi xây dựng chiến lược, KTNB phải căn cứ vào mục tiêu và hiểu rõ mối liên hệ giữa chiến lược và mục tiêu. Mục tiêu là đích cần đạt tới của một cuộc kiểm toán còn chiến lược là phương tiện đạt được các kết quả đã đặt ra. Khi xây dựng chiến lược kiểm toán, KTNB căn cứ vào cách thức tổ chức, chính sách nhân sự, phương thức quản trị hoạt động kiểm soát, phạm vi của các thủ tục kiểm toán, cách thức báo cáo, chương trình kiểm toán linh hoạt, mức độ và phạm vi áp dụng các hoạt động kiểm toán. Đặc biệt, chiến lược kiểm toán cần được xây dựng dựa trên chiến lược hoạt động của toàn bộ tập đoàn. Chiến lược KTNB của tập đoàn cần có sự liên hệ chặt chẽ đến ngành nghề kinh doanh, thị trường mục tiêu, sản phẩm, các giá trị của toàn bộ tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn. Những nội dung thực hiện trong chiến lược kiểm toán cần cân nhắc để không bị mâu thuẫn hay cản trở việc thực hiện chiến lược


hoạt động chung của tập đoàn. Tuy nhiên, việc xây dựng chiến lược của KTNB cần có sự điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ.

Thứ ba: Triển khai các chính sách hỗ trợ và các thủ tục nghiệp vụ. Các chính sách và thủ tục hỗ trợ thường liên quan chủ yếu đến tổ chức nhân sự, sổ sách, báo cáo. Vấn đề quan trọng mà KTNB cần xác định là cách thức duy trì các chính sách và thủ tục. Một khía cạnh quan trọng khác của các chính sách và thủ tục là phạm vi áp dụng các chính sách hay thủ tục. Các quy định có thể có phạm vi rộng hay hẹp, có mức độ áp dụng bắt buộc hay mang tính hướng dẫn tùy thuộc vào việc các chính sách hay thủ tục có được chi tiết hay không. Ngoài ra, các chính sách và thủ tục phải có tính kế thừa trên các chính sách và thủ tục trước đó và phải dựa trên môi trường xây dựng các chính sách và thủ tục. Các chính sách này thường được xây dựng chung cho tất cả các thành viên trong tập đoàn và có sự điều chỉnh trong những trường hợp đặc biệt.

Thứ tư: Xây dựng ngân sách hàng năm cho KTNB. Để lập ngân sách hoạt động hàng năm, KTVNB phải xác định số lượng nhân viên thực hiện kiểm toán, số đơn vị trong tập đoàn được lựa chọn để kiểm toán, dự kiến nhu cầu sử dụng chuyên gia bên ngoài, các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động kiểm toán. Đây là cơ sở hiệu quả cho KTVNB xác định được ngân sách cho các cuộc KTNB. Khi ngân sách được phê duyệt, ban quản trị của từng doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn sẽ lấy chính ngân sách này làm cơ sở để kiểm soát hoạt động của KTNB.

Thứ năm: Triển khai các chương trình làm việc. Chương trình kiểm toán là cơ sở cho hoạt động kiểm toán được thực hiện một cách có hiệu quả. Chương trình kiểm toán giúp KTV có thể xây dựng kế hoạch làm việc, tạo sự chủ động cho mỗi cá nhân trong đoàn KTNB và sự phối hợp hiệu quả của cả nhóm kiểm toán cũng như với các các bên có liên quan. Chương trình kiểm toán thường được xây dựng cho khoảng thời gian thông thường là một năm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt chương trình kiểm toán có thể được xây dựng cho khoảng thời gian nhiều hơn một năm. Việc lập chương trình kiểm toán cho một khoảng thời gian dài sẽ gây cho KTVNB rất nhiều khó khăn vì chương trình kiểm toán sẽ khó thích ứng với những thay đổi của yêu cầu quản lý, môi trường kinh doanh, thay đổi nhân sự. Do đó, chương trình kiểm toán thông thường chỉ được xây dựng theo năm. Trước khi triển khai chương trình kiểm toán, KTV đề nghị cấp có thẩm quyền cho ý kiến về những lĩnh vực trọng điểm. Những ý kiến này có thể thu thập từ nhà quản lý trung gian hoặc


nhà quản lý cao cấp. Những người chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc kiểm toán cũng cần đề xuất các nội dung kiểm toán, hơn nữa, các thành viên khác của đoàn kiểm toán cũng phải được tiếp xúc để có đề xuất cho các cuộc kiểm toán.

Thứ sáu: Nghiên cứu và thu thập thông tin sơ bộ về cuộc kiểm toán. Mục tiêu của việc nghiên cứu và thu thập thông tin này là giúp KTVNB định hướng được những nội dung cần ưu tiên trong cuộc kiểm toán. Để có được nghiên cứu ban đầu hiệu quả, KTV có thể dựa trên các thông tin sau: Một là, KTV phải thu thập những yêu cầu của quản lý. Mục tiêu kiểm toán phải được xác định rõ ràng. Chủ tịch hội đồng quản trị, ủy ban kiểm toán hoặc các nhà quản lý cao cấp khác có thể yêu cầu tiến hành kiểm toán. Tuy nhiên, trong từng trường hợp đều phải làm rõ mục tiêu chi tiết của cuộc kiểm toán. Hai là, KTV cần thu thập và dựa vào những phát hiện trước đây. Những phát hiện này có thể có trong hồ sơ kiểm toán lần trước hoặc trong các báo cáo kiểm toán trước. Khi thẩm tra các báo cáo kiểm toán trước đây, kiểm toán viên có thể phát hiện ra các sai phạm đã báo cáo trong lần kiểm toán trước và cần được thẩm tra tiếp. Điều này đặc biệt quan trọng nếu những phát hiện này lớn và được báo cáo trong nhiều cuộc kiểm toán trước.

Bước 2: Lập kế hoạch KTNB chi tiết

Kế hoạch KTNB chi tiết là kế hoạch kiểm toán cân đối từng bộ phận của cuộc kiểm toán đối với từng đơn vị thành viên trong tập đoàn nhằm chỉ đạo tổ chức thực hiện các hoạt động cụ thể của cuộc kiểm toán bộ phận. Căn cứ để xây dựng kế hoạch KTNB chi tiết là kế hoạch KTNB năm được phê duyệt và đặc điểm của các doanh nghiệp thành viên được kiểm toán. Kế hoạch KTNB chi tiết có thể được sửa đổi trong quá trình thực hiện KTNB do các điều kiện khách quan mang lại. Trình tự xây dựng kế hoạch KTNB chi tiết thường bao gồm các công việc chủ yếu sau: chuẩn bị kế hoạch kiểm toán chi tiết, khảo sát và thu thập thông tin về đơn vị thành viên được KTNB, xác định mức độ trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán, tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm toán, tổng hợp kế hoạch KTNB chi tiết và soạn thảo chương trình kiểm toán.

Đối với chuẩn bị kế hoạch kiểm toán chi tiết, người phụ trách công việc KTNB phải xác định mục tiêu, phạm vi, nhân lực và các điều kiện vật chất cơ bản của cuộc KTNB. Trong quan hệ với loại hình kiểm toán, cần nhận thức rõ sự khác biệt về mục tiêu khi KTNB tiến hành kiểm toán hoạt động và kiểm toán BCTC. Kiểm toán hoạt động chủ yếu hướng tới mục tiêu là tính kinh tế, tính hiệu quả và


hiệu năng của hoạt động và tác nghiệp trong khi kiểm toán BCTC chủ yếu hướng tới tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của thông tin. Căn cứ vào mục tiêu và phạm vi kiểm toán, người phụ trách công việc KTNB chỉ định người phụ trách cho từng cuộc kiểm toán cụ thể và số lượng KTV cho từng cuộc kiểm toán. Yêu cầu cuộc việc chỉ định nhân sự là phải lựa chọn những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng, am hiểu về lĩnh vực và loại hình kiểm toán được phân công.

Đối với công việc thu thập thông tin, trước hết KTNB tiến hành thu thập thông tin chung về hoạt động của doanh nghiệp thành viên như cơ cấu tổ chức, quan hệ liên kết với công ty mẹ, tình hình phát triển của doanh nghiệp, thay đổi chủ yếu về nhân sự và chính sách của doanh nghiệp. Tiếp theo, KTNB tiến hành thu thập thông tin về quản lý nội bộ của doanh nghiệp thành viên như các quy chế nội bộ, số lượng, trình độ, khả năng của lãnh đạo doanh nghiệp thành viên, mô hình tổ chức quản lý của doanh nghiệp thành viên. KTNB có thể thu thập thông tin bằng cách quan sát, sử dụng bảng câu hỏi, phỏng vấn, phân tích sơ bộ đội với các văn bản pháp lý của nhà nước và các tài liệu do doanh nghiệp thành viên cung cấp.

Công việc tiếp theo là xác định mức độ trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm soát. Bước công việc này được thực hiện chủ yếu trong trường hợp KTNB tiến hành kiểm toán BCTC. Theo bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47), KTV nên xem xét rủi ro kiểm toán và các vấn đề trọng yếu khi lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như đưa ra kết luận kiểm toán. Trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, lá khái niệm để chỉ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã đánh giá đó để đưa ra quyết định. Trọng yếu có thể được đánh giá thông qua đánh giá quy mô và bản chất của phần nội dung kiểm toán. KTV cần đánh giá rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện trên cơ sở đó xác định phương pháp kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thấp KTV có thể xác định mức rủi ro phát hiện ở mức cao và có thể thu hẹp phạm vi kiểm toán, giảm kích cỡ mẫu và ngược lại. Đối với công việc tìm hiểu HTKSNB, KTV thu thập thông tin nhằm đánh giá HTKSNB của doanh nghiệp thành viên theo ba hướng: tính hiệu lực, tính hiệu quả và tính liên tục của HTKSNB. Trên cơ sở đó KTV tiến hành tổng hợp kế hoạch kiểm toán chi tiết. Nội dung kế hoạc kiểm toán chi tiết là sự cụ thể hoá kế hoạch KTNB năm về thời gian, công việc, nhân sự, phạm vi và mục tiêu kiểm toán.


Kế hoạch kiểm toán chi tiết sau khi lập xong được Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc tập đoàn phê duyệt làm cơ sở tiến hành cuộc kiểm toán. Khác với kế hoạch kiểm toán do các KTV bên ngoài thực hiện, kế hoạch kiểm toán chi tiết có thể được sửa đổi bổ sung trong quá trình thực hiện nếu có những thay đổi về điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, sự thay đổi kế hoạch KTNB phải được sự chấp thuận của người phê duyệt kế hoạch kiểm toán. Điều này thường được quy định rõ trong quy chế KTNB của tập đoàn. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán chi tiết, KTNB tiến hành thiết kế chương trình KTNB chi tiết đối với từng đối tượng kiểm toán xác định. Chương trình KTNB là toàn bộ các chỉ dẫn cho KTV tham gia vào công tác kiểm toán, là căn cứ phân công, ghi chép theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán. Chương trình kiểm toán là căn cứ đề đánh giá chất lượng công việc kiểm toán và là minh chứng pháp lý để chứng minh công việc kiểm toán đã được thực hiện một cách phù hợp. Thông thường, chương trình KTNB do các trưởng nhóm (trưởng đoàn) KTNB của tập đoàn hay của đơn vị thành viên xây dựng. Trong quá trình xây dựng chương trình KTNB, KTV phải xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng phần hành kiểm toán. Trong quá trình xây dựng chương trình kiểm toán, KTVNB xác định phương hướng, phạm vi và mức độ cần tập trung khi tiến hành kiểm toán thông qua làm quen với HTKSNB. Kiểm toán viên phải xác định độ tin cậy có thể dựa vào hệ thống KSNB cũng như các phân hệ công việc của KSNB trước khi tiến hành kiểm toán. Dựa vào kết quả của công việc điều tra tại địa bàn, KTV xác định bản chất và nội dung công việc cần thực hiện. Trên cơ sở các kết luận điều tra, kế hoạch kiểm toán đã lập, KTV xây dựng chương trình kiểm toán. Khi xây dựng chương trình kiểm toán, cần lưu ý xác định kết quả kiểm toán sẽ được thông báo như thế nào, khi nào và cho ai. Đây là vấn đề luôn phải được xác định trước trong chương trình kiểm toán tương ứng với từng đối tượng kiểm toán cụ thể. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng những vấn đề này phải luôn được xem xét lại dựa trên các kết quả kiểm toán diễn ra cụ thể trong quá trình thực hiện kiểm toán.

Giai đoạn 2: Thực hiện KTNB


Thực hiện KTNB là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình KTNB. Đối với mỗi đối tượng KTNB khác nhau, mỗi loại hình kiểm toán khác nhau và trong từng khoảng thời gian cụ thể khác nhau có thể thực hiện quy trình kiểm toán khác nhau. Tuy nhiên, trong thực hiện kế hoạch

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 10/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí