Các Hình Thức Nghệ Thuật Nổi Bật Của Tiểu Thuyết Lịch Sử Dụ Ngôn Hóa Sử Liệu


3.2.4. Giáo huấn về chủ nghĩa nhân đạo

Các tác phầm viết theo xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu còn gửi đến người đọc các bài học giáo huấn về truyền thống nhân đạo ẩn sâu trong nhiều hình tượng nghệ thuật gắn với các hình thức giáo dục đa dạng để người đọc tự nhận thức, thức tỉnh những bài học đạo lý sâu sắc qua những xúc cảm thẩm mỹ. Đó cũng có thể là hình thức giáo dục trừ bỏ, kháng lại “sự tha hóa của con người” hay “tồn tại xã hội ngày càng tha hóa” như Mác và H.R Jauss nói. Mác khẳng định: “thẩm mỹ là phương thức hành vi trừ bỏ được sự tha hóa của con người”; còn H.R Jauss nói: “Cảm xúc thẩm mỹ […] phải đảm nhiệm trọng trách đề kháng lại tồn tại xã hội ngày càng tha hóa” [199; 549, 550]. Iser còn đề cập đến “tính phủ định”- chiều sâu của “kết cấu vẫy gọi”, thể hiện “những cách nhìn ít nhiều có tác dụng phản biện với những quan niệm vốn có của người đọc về các mặt chính trị, triết lý, đạo đức, thẩm mỹ” và “Văn bản tốt là vừa gợi lên những sự chờ đợi quen thuộc, vừa phủ định” [199; 555]. Như vậy nhà văn không chỉ viết ra những điều khẳng định phù hợp với tầm đón quen thuộc của người đọc, mà viết cả những điều mang “tính phủ định”, phản tiếp nhận cũng là một hình thức tiếp nhận để thanh lọc, hướng tới giá trị nhân đạo và cái Chân- Thiện- Mỹ.

Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu phản ánh các sự thật lịch sử trên tinh thần nhân đạo nhằm mục đích giáo huấn: tất cả vì sự phát triển toàn diện, hoàn thiện, nhân văn vì con người, tôn trọng các quyền của con người và đảm bảo nguyên tắc khách quan mang tính lịch sử cụ thể: “sự bình giá người và trên quan điểm của hàng triệu con người” [160; 80]. Bàn về mục đích giáo huấn, Konrad nhấn mạnh việc phản ánh hiện thực lịch sử nhằm hướng tới các giá trị chuẩn mực đạo đức cao nhất của con người góp phần thúc đẩy văn minh tiến bộ của nhân loại là sự nhân đạo hóa con người: “Chủ nghĩa nhân đạo là một phạm trù đạo đức cao nhất xét theo ý nghĩa xã hội của nó. Tư tưởng này luôn luôn là tiêu chuẩn cao nhất của tiến bộ thật sự của con người” [129]. Cùng trong quan điểm đó, A. Busmin cũng khẳng định nguyên tắc nhân đạo chủ nghĩa “phải là tiêu chuẩn cao nhất trong tổng hợp những chỉ tiêu của tiến bộ nghệ thuật” [130; 58]. Như vậy, ta có thể thấy nguyên tắc nhân đạo được thể hiện rõ qua quan điểm nhân đạo, tình cảm thẩm mỹ của các nhà văn khi phản ánh lịch sử và miêu tả con người trong tác phẩm. Quan điểm nghệ thuật thẩm mỹ của các nhà văn thể hiện cả trong việc tái hiện những “mảng tối” của đời sống quá khứ cũng là “một hình thức chống lại cái ác. Sự hiện diện của cái xấu, cái ác trong tác phẩm vừa là phản ánh của hiện thực vừa là phản ứng đối với hiện thực” [337]. Qua đó, ta thấy nhà văn luôn bày tỏ thái độ, tư tưởng, suy ngẫm, triết lý về con người và đời sống nhân sinh trên tinh thần yêu nước, nhân đạo, đậm chất thế sự nhằm dự báo, cải tạo hiện thực theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, nhân văn, hướng tới Cái Đẹp, Cái Thiện; đồng thời thức tỉnh con người tránh xa cái xấu, cái ác, ngăn chặn mọi sự tha hóa, biến chất trong tâm hồn mỗi con người, điều chỉnh hành vi, giải phóng con người, làm cuộc sống trở nên tốt đẹp


hơn, tất cả vì hạnh phúc của con người, xây dựng cuộc sống đương đại trở nên tốt đẹp hơn, hướng tới niềm vui, hạnh phúc giữa cuộc đời.

Việc chú ý đến chất thế sự đời tư của nhân vật lịch sử bằng quan điểm nhân đạo từ góc nhìn đa chiều, thể hiện sự cách tân, đổi mới trong quan điểm thẩm mỹ của nhà văn khi lật giở lịch sử, miêu tả một cách đầy đặn, sống động, cụ thể, chân thực bằng các biện pháp nghệ thuật của văn học để gửi gắm các bài học đạo lý sâu sắc về sự chọn lựa lẽ sống, triết lý về tình yêu, hạnh phúc của con người. Vì vậy, nhân vật là những con người có thật trong quá khứ bước vào trang viết với tất cả bản chất của một con người bình thường, làm cho TTLS khác biệt so với khoa học lịch sử. Ví dụ như trong “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải, ta thấy nhà văn còn soi chiếu nhân vật Lý Thường Kiệt từ góc nhìn thế sự đời tư, không né tránh một sự thật lịch sử đau đớn khi nói về việc Lý Thường Kiệt “tự yêm”, rời xa gia đình, vợ con, để trở thành con người xã hội, gánh nhiều trọng trách của triều đình, nhân dân, đất nước. Sử liệu vẫn còn chép lại sự kiện có thật này: “Tạ Đức khen (Lý Thường Kiệt) là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần cho ông [...] ông cưới vợ mấy năm về trước [...] vua lại triệu vào hầu cận [...] cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm [...] Lý Thường Kiệt đã tự yếm; đó là một sự thật [...] ông là một hoạn quan” [127; 41-43]. Ông cũng đau khổ, buồn bã, nhưng vẫn quyết định xa rời người vợ trẻ đẹp- Thuần Khanh vừa mới cưới chưa được bao lâu để vào triều. Khắc họa nhân vật từ khía cạnh con người thế sự đời tư mang cảm thức hiện sinh, nhà văn nhiều lần miêu tả dòng tâm tư, suy nghĩ, nỗi lòng, phân tích tâm trạng chất chứa buồn phiền, khổ đau, tội lỗi, cô đơn, bơ vơ, lạc lõng của Lý Thường Kiệt khi phải làm giấy giải hôn, dứt bỏ hôn nhân với vợ mà trong lòng luôn thương nhớ vợ con, gợi sự ám ảnh, cảm thông, sẻ chia ở người đọc. Đây cũng là trạng thái tâm lý riêng tư thường thấy của con người thế sự trong cõi trần gian: “Lý Thường Kiệt muốn vồ chộp ngay lấy thằng bé để tìm ra tung tích mẹ con nàng” nhưng thằng bé đã lẩn mất [121; 72]. Trách phận của một vị tướng đã ngăn ông lại, khi màn đêm buông xuống, phố biển lên đèn, cũng là lúc Lý Thường Kiệt suốt đêm dài sống dậy những kỷ niệm đau đớn đã vùi sâu chôn chặt dưới đáy lòng về vợ con. Nhà văn bày tỏ tình cảm nhân đạo qua sự đồng cảm, xót thương, chia sẻ với nhân vật Lý Thường Kiệt về những khổ đau, dằn vặt, bi kịch tình yêu, hạnh phúc từ góc nhìn đời tư.

Khi miêu tả về con người thế sự, nhà văn viết theo xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu chú trọng đến đời sống riêng tư của con người, miêu tả tâm lý phức tạp, đa tính cách, nhiều chiều với tất cả những mặt tốt xấu, cao thượng, thấp hèn, nghiêm túc, buồn cười, cô đơn, buồn khổ, niềm vui, hạnh phúc, muôn vàn các vấn đề của cuộc sống thường nhật để gửi gắm bài học giáo huấn về tình yêu đôi lứa, khát vọng hạnh phúc gia đình chân chính, đích thực của con người trần thế bằng quan điểm nhân đạo. Ví như việc Hoàng Quốc Hải miêu tả nhân vật Trần Hưng Đạo (Trần Quốc Tuấn) trong “Bão táp triều Trần”. Hoàng Quốc Hải viết về đời tư của nhân vật lịch sử Trần Hưng Đạo, để nhân vật hiện lên với tất


cả các mặt tốt xấu của con người trần tục qua chi tiết Hưng Đạo chủ động đi tìm tình yêu, hạnh phúc riêng tư, hành động một cách liều lĩnh, quyết liệt. Trong khi kinh đô tấp nập nhộn nhịp vào hội, Tuấn chỉ ở lì trong cung, giam mình trong phòng để nghiền ngẫm binh sách, suy nghĩ về “cảnh người yêu sắp đi lấy chồng”. Tâm trạng của nhân vật trong hoàn cảnh này được tác giả hư cấu rất tự nhiên, gần với tâm lý thường thấy của con người đời thường ở mọi thời đại: Tuấn “buồn bã ủ dột”, “ngao ngán, mệt mỏi, dằn vặt”, bỏ cơm, tìm đến với rượu để giải sầu “uống một hơi hết ba bát rượu”, càng uống lòng chàng lại càng “bâng khuâng nhớ tới Thiên Thành”. Những lời độc thoại nội tâm của nhân vật Quốc Tuấn thể hiện rõ tâm trạng ấy: “Nhưng trốn đi đâu? Và tại sao phải đi trốn?” [120; 443]. Chàng trai trẻ ấy bảo vệ tình yêu của mình một cách mạnh mẽ, quyết liệt, “điên cuồng, rồ dại” đến mức liều lĩnh: “đêm qua, dám vượt rào lẻn vào chỗ Thiên Thành ở” để “thật sự hưởng trọn đêm tân hôn”, buộc công chúa phải từ hôn với Trung Thành vương [120; 444, 447]. Sử liệu vẫn còn ghi chép lại một sự kiện có thật về việc Trần Hưng Đạo liều lĩnh, táo bạo, điên cuồng, quyết liệt, bất chấp tất cả luật lệ triều đình để giữ người mình yêu trong cuộc giằng co giữa tình cảm và lý trí, tình cảm đã thắng: “công chúa Thiên Thành gả cho Trung Thành Vương [...] Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành mà không làm thế nào, mới nhân ban đêm lẻn vảo chỗ ở của công chúa để thông dâm”[77; 279]. Nhà văn đã làm sống dậy trên trang sách một vẻ đẹp toàn diện của Trần Hưng Đạo- con người xã hội gánh trên vai trách nhiệm với quốc gia dân tộc, đồng thời toát lên vẻ đẹp của con người trần thế, biết khao khát yêu thương. Giá trị nhân đạo được thể hiện ở chỗ Hoàng Quốc Hải cảm thông, chia sẻ, trân trọng, nâng niu những khát vọng chân chính của con người trần thế về tình yêu và hạnh phúc đời thường. Đây là khát vọng nhân văn, nhân bản muôn thuở của con người.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Trong mạch cảm hứng thế sự, xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu còn chú ý khám phá, miêu tả con người bản năng theo chiều hướng cả tích cực lẫn hạn chế, để người đọc tự nghiệm ra những bài học đạo lý, các giá trị nhân bản sâu sắc, cũng như sự tha hóa khi dục vọng, vô thức bản năng của con người trỗi dậy qua thái độ phủ định, phê phán, lên án, tố cáo các mặt tiêu cực. Ví dụ như trong “Bão táp triều Trần”, Hoàng Quốc Hải thể hiện thái độ phủ định, phê phán, lên án, tố cáo những dục vọng bản năng sai trái, tội lỗi của vua Trần Dụ Tông và Thoát Hoan khi đắm chìm trong sắc dục. Khi đề cập đến con người bản năng, các nhà văn cũng vạch trần sự hư hỏng, sa sút về đạo đức của một kiểu người ích kỉ, vô đạo trong xã hội phong kiến để thỏa mãn “vô thức bản năng”. Từ đó, nhà văn băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ nhiều về việc tìm giải pháp chấn chỉnh đạo đức, xác định lối sống phù hợp cho con người trong xã hội đương đại thông qua hình tượng con người bản năng gắn với các vấn đề của lịch sử. Các nhà văn thể hiện rõ nỗi bất bình với các hiện tượng tiêu cực của xã hội, mạnh dạn phê phán cái xấu và không ngần ngại đả phá những gì làm hư hỏng đạo đức truyền thống qua hình tượng con người bản năng gắn với một số biểu hiện như là mặt trái, hạn chế của hiện thực lịch sử. Điều đó được thể hiện qua các nhân vật Trần


Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ thể loại - 13

Thủ Độ, Trần Thị Dung, Đỗ Anh Vũ, Lê thái hậu (hoàng hậu Bảo Minh), vua Trần Dụ Tông, tướng giặc Thoát Hoan, vợ chồng Lưu Nương Tú và Khương Dương, cùng con trai Nhật Lễ, tướng giặc In Va, vua nước Chiêm là Chế Bồng Nga … trong “Bão táp triều Trần”. Đây là tuyến nhân vật phản diện có thật, mang các phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng của con người, xã hội và thời đại. Tuyến nhân vật này đại diện cho cho cái xấu, cái ác, sự “tha hóa”, bảo thủ, lạc hậu, bị tác giả lên án, phê phán, tố cáo, mỉa mai, chế giễu, châm biếm, đả kích, phủ định. Những hình tượng nghệ thuật này có nhiều nét tính cách mang nghĩa biểu tượng, ẩn dụ để nói về các hiện tượng tiêu cực, những dục vọng bản năng sai trái, tội lỗi trong tâm hồn con người làm băng hoại đạo đức xã hội, làm triều đình nhà Trần mục ruỗng, suy thoái, suy tàn. Từ đó, những người giữ vai trò lãnh đạo ở các cấp tự rút ra các bài học nhân sinh sâu sắc, thức tỉnh, đấu tranh không khoan nhượng, loại bỏ cái xấu, cái ác, không phạm phải sai lầm, thất bại của lịch sử, để đưa đất nước phát triển đi lên, làm cho dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Qua đó, Hoàng Quốc Hải lên án, phê phán, tố cáo những dục vọng vô thức bản năng dẫn đến sự tha hóa trong con người qua các nhân vật để người đọc tự rút ra các bài học kinh nghiệm nhằm thanh lọc, bồi dưỡng, nâng cao tâm hồn mình.

Việc đề cập đến con người bản năng trong TTLS dụ ngôn hóa sử liệu phản ánh một quy luật tự nhiên, một sự thật tất yếu của con người trong sự ràng buộc bởi các yếu tố lịch sử, đạo đức xã hội, tâm lý, đạo lý, “mặt nạ nhân cách”, thể hiện con người “toàn phần và cụ thể” ở tận cùng chiều sâu nhân bản trong những khát vọng nhân văn, bình dị, đời thường nhất mà nhiều khi con người giấu kín bởi sự định chế của các quy phạm đạo đức, luân lý xã hội. TTLS Việt Nam đương đại miêu tả hình tượng con người bản năng luôn tiết chế, điều khiển dục vọng bản năng theo ý chí và đạo đức xã hội như nhân vật Trần Hưng Đạo, An Tư, Chiêu Thành vương, Huyền Trân trong “Bão Táp triều Trần” của Hoàng Quốc Hải. An Tư khao khát được tự do yêu đương nhưng lại bị giặc ép duyên, miễn cưỡng chấp nhận sự ép buộc của giặc Nguyên, về sống với kẻ thù của dân tộc là tên tướng giặc Thoát Hoan, cuối cùng rơi vào bi kịch tình yêu dang dở: hy sinh trong tro bụi của thuốc đạn pháo khi nàng đốt hết kho thuốc đạn, vũ khí của giặc. An Tư đã mang tất cả tình yêu của Chiêu Thành vương về nơi mộ huyệt. Nhà văn đã “cô đặc kiếp người, một thời đại lịch sử với những bi kịch con người và lịch sử dữ dội, ác liệt. Một câu hỏi nhân văn căng thẳng vừa thời sự, vừa nhân bản” [182; 69, 70]. Nhà văn viết về các nhân vật nữ bằng quan điểm nhân đạo với tư tưởng nữ quyền sâu sắc để vạch trần hiện thực nghiệt ngã, cất lên tiếng kêu xé lòng đau xót, cảm thương thân phận tội nghiệp của người phụ nữ tài sắc mệnh bạc, phát hiện, khẳng định, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, thánh thiện của người phụ nữ qua nhân vật An Tư và nhiều nhân vật khác.

Sự cách tân của xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu còn thể hiện trong việc khám phá con người thế sự đời tư gắn với con người bản năng với tất cả các yếu tố bản thể tự


nhiên nhất, bằng quan điểm nhân đạo thẩm m với lối tư duy chính luận sắc sảo, rõ ràng để gửi gắm những bài học giáo huấn. Khi miêu tả con người bản năng trong các nhân vật lịch sử chính diện, các nhà văn chú ý tô đậm tình yêu riêng tư của con người gắn với lý tưởng sống và chiến đấu vì vận mệnh của quốc gia dân tộc, hòa trong tình yêu quê hương đất nước. Trong đời tư thế sự, tình yêu là chất men say không thể thiếu, làm dịu mát tâm hồn, tiếp thêm động lực, sức mạnh tinh thần, nâng đỡ tâm hồn con người trước hiện thực khắc nghiệt để hướng về những điều lớn lao cao cả của nhân dân, đất nước. Ví dụ như Hoàng Quốc Hải miêu tả con người bản năng say đắm trong tình yêu qua các nhân vật như Trần Hưng Đạo, công chúa Huyền Trân, công chúa An Tư trong “Bão táp triều Trần” mà chúng tôi đã phân tích. Bàn về hình tượng con người bản năng, Hoàng Quốc Hải nói: “Con người có phần CON và phần NGƯỜI” và ông cho rằng “Phần người mới là phần làm nên lịch sử. Cái rung động của vĩ nhân cũng khác cái rung động của kẻ hạ đẳng, họ chiêm ngưỡng cái đẹp chứ không chiếm đoạt cái đẹp” [122]. Các nhà TTLS có thể phản ánh tất cả các sự thật về con người, làm nổi bật được chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng hay sự “tha hóa” của nhân vật… qua quan điểm văn hóa thẩm mỹ, giàu tính triết lý, thể hiện thái độ khẳng định ca ngợi hay phủ định rõ ràng. Từ đó, người đọc nhận ra các bài học sâu sắc, các chân giá trị, quy luật của đời sống, bổn phận, trách nhiệm của con người trước thực tại, kiểm soát được lý trí và tình cảm, chế ngự được vô thức bản năng, điều tiết hài hòa phần “CON” và phần “NGƯỜI” trong đời sống thế sự, hướng đến những điều tốt đẹp, tránh xa các tệ nạn xã hội. Khi miêu tả con người thế sự từ góc nhìn đời tư, các nhà văn thể hiện sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật, còn khám phá con người bản năng gắn với khát vọng tình yêu, không né tránh việc miêu tả phần vô thức bản năng luôn bị chế ngự bởi các quan niệm văn hóa, đạo đức xã hội. Các nhà TTLS thể hiện quan điểm nhân đạo, thái độ cảm phục, trân trọng, cảm thông, chia sẻ với các nhân vật khi miêu tả tình yêu bản năng của con người trần thế theo chiều tích cực gắn với quy luật tự nhiên của đời người, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.

Tóm lại, xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu đã khái quát sâu rộng mọi mặt mà đời sống quá khứ để gửi gắm các bài học đạo lý sâu sắc qua các hình tượng nghệ thuật là những con người có thật trong lịch sử dân tộc được khám phá trong các sự kiện lịch sử có thật bằng quan điểm nghệ thuật thẩm mĩ của nhà văn. Qua đó, các nội dung giáo huấn về truyền thống nhân đạo được thể hiện rõ qua tình cảm, thái độ của nhà văn đối với các hình tượng nghệ thuật gắn với người thật, việc thật được miêu tả trong tác phẩm. Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu có thể vượt lên trên hiện thực lịch sử, kiếm tìm các giá trị nhân đạo, nhân bản giàu “tính người”, hướng đến các giá trị Chân- Thiện- Mỹ, đạo đức nhân sinh thế sự, những tình cảm thẩm mỹ,… để cải hóa hiện thực theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, giàu tính nhân văn, thúc đẩy sự phát triển đi lên tốt đẹp của xã hội.


3.3. Các hình thức nghệ thuật nổi bật của tiểu thuyết lịch sử dụ ngôn hóa sử liệu

3.3.1. Đan xen người kể chuyện toàn tri và hạn tri

Điểm nổi bật thể hiện sự cách tân nghệ thuật của xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu là sự hoán đổi liên tục từ người kể chuyện toàn tri ẩn mình sang người kể chuyện là các nhân vật để gửi gắm các nội dung giáo huấn. Người kể chuyện toàn tri đứng ngoài câu chuyện, có thể kể tất cả những sự vật, hiện tượng, các nhân vật lịch sử, các sự việc bên ngoài, diễn ra theo quy luật tất yếu khách quan của lịch sử bằng thái độ tôn trọng các sự thật lịch sử. Chủ thể trần thuật toàn tri biết trước tất cả, kể một cách trung thực bằng điểm nhìn bên ngoài, điều khiển mạch truyện hợp với logic lịch sử, kể về mọi điều nằm ngoài ý muốn của chính anh ta, đảm bảo nguyên tắc về “tính chân thật lịch sử” của thể loại tiểu thuyết lịch sử.

Người trần thuật có những ưu thế nhất định để làm tăng tính khách quan, chân thực của câu chuyện mà anh ta đang kể: “Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả những gì họ biết, còn ngôi thứ nhất thì chỉ được kể những gì mà khả năng của một người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo được cảm giác chân thực” khách quan [271; 61]. Ví dụ như điểm nhìn khách quan của người kể chuyện toàn tri trong tác phẩm “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải có vai trò quan trọng trong việc tạo nên các lớp kết cấu của thể loại, xác định khoảng cách, cự ly của người kể với các câu chuyện lịch sử được kể. Nhà văn sắp xếp, đan cài khéo léo, tài tình các điểm nhìn toàn tri và điểm nhìn hạn tri bên ngoài của các nhân vật, di chuyển điểm nhìn liên tục, làm tăng tính chân thật lịch sử. Mở đầu tác phẩm là điểm nhìn toàn tri ở ngôi thứ ba ẩn mình kể một cách khách quan về sự kết thúc của triều đại do vua Lê Long Đĩnh- tên vua ngu tối, độc ác trị vì và sự lên ngôi của vua Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ). Người kể chuyện toàn tri đứng ngoài để quan sát và miêu tả khách quan các hành động bên ngoài của nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn khi được tín nhiệm lên ngôi: “Lý Công Uẩn cảm động rơm rớm nước mắt; ông đứng lên chắp tay vái hai vái để tỏ lòng biết ơn bá quan” [121; 41]. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm “Tám triều vua Lý”, ta thấy sự đan cài, hoán đổi, luân phiên điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện ẩn mình điểm nhìn hạn tri bên ngoài của hàng trăm nhân vật xưng “tôi” hoặc “ta” như sư Vạn Hạnh, sư Viên Chiếu, vua Lý Thái Tổ, Lê Long Đĩnh,... Điểm nhìn hạn tri bên ngoài của các nhân vật được di chuyển liên tục trong sự tương tác lời, đối thoại trực tiếp giữa các nhân vật qua sự ghép nối, lồng truyện, xâu chuỗi của người kể chuyện toàn tri, làm đời sống quá khứ, các nhân vật có thật và các sự kiện lịch sử của thời Lý hiện lên tự nhiên, chân thật hơn, làm tăng tính khách quan của lịch sử và phát huy được tính hư cấu sáng tạo trong cấu trúc thể loại.

Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu tuân thủ chặt chẽ tính khách quan của lịch sử qua các nhân vật, sự kiện có thật và các mốc thời gian cụ thể, xác tín được thiết lập cân đối, hài hòa, hợp lý trong điểm nhìn toàn tri và điểm nhìn hạn tri của người kể chuyện. Trục thời gian tuyến tính thường bị chen ngang bởi các lớp thời gian đa chiều mang tính hư cấu qua


điểm nhìn hạn tri liên tục di chuyển qua các nhân vật, nên các sự kiện lịch sử và nhân vật có thật được soi chiếu dưới nhiều chiều kích nhằm truyền đến người đọc các bài học giáo huấn sâu sắc. Việc đan cài điểm nhìn toàn tri và điểm nhìn hạn tri, trao điểm nhìn cho nhân vật, liên tục di chuyển điểm nhìn hạn tri trong trường nhìn của các nhân vật đã biến thời gian của sự kiện lịch sử bên ngoài trở thành thời gian tâm lý trong cảm nhận của con người. Điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện giấu mình ở ngôi thứ ba có thể bao quát, điều chỉnh cấu trúc trần thuật của toàn bộ các lớp truyện trong cả tác phẩm. Sự lựa chọn điểm nhìn toàn tri xuất phát từ yêu cầu về nguyên tắc thể loại “kể một mạch truyện về cái đã xẩy ra một cách chân thực, gợi suy tư để đối tượng rút ra bài học” [123; 90]. Trong “Tám triều vua Lý”, người kể chuyện toàn tri xuất hiện ẩn mình trong ngôi thứ ba, biết trước, biết hết mọi chuyện, đứng ngoài để quan sát các nhân vật một cách rất khách quan, chân thực. Hoàng Quốc Hải dùng lời dẫn gián tiếp để nói về điểm nhìn toàn tri ở ngôi thứ ba, đứng ngoài quan sát và kể lại rất khách quan, chân thực cuộc chiến của Lý Kế Nguyên khi giặc thách đánh, ông đã “phê gọn một chữ son to tướng trùm hết lá thư: CHIẾN!” [121; 444]: “Hai đoàn thuyền từ hai phía đối nghịch đang phăng phăng như sắp đâm vào nhau” và “Giặc hò nhau đuổi”, khi nước thủy triều xuống, “thuyền giặc lớn và nước trong Cửa Đối đổ ra như thác tuôn”, bỗng “một tiếng nổ ầm như tiếng sấm. Tiếng nổ lan truyền như một hồi sấm rền, hiện ra đại hạm thuyền của ta” lao ra “vừa chặn đầu vừa khóa đuôi quân giặc lại”, làm cho “thuyền giặc bốn phía đều bị quân ta áp sát” [121; 446]. Việc di chuyển điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện sang điểm nhìn chủ quan, hạn tri của các nhân vật sẽ làm cho các nhân vật tự xưng “tôi” trong các cuộc đối thoại sinh động, hiện lên đúng như bản chất câu chuyện, có cơ hội tự bộc lộ trạng thái tâm lý của chính mình một cách chân thực, tái hiện lại lịch sử thời Lý một cách khách quan. Đây là những dòng ngắn ngủi nhân vật lịch sử Lý Kế Nguyên xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất, tự bộc bạch tâm lý, suy nghĩ của mình trong cuộc đối thoại với tướng lĩnh về kế hoạch đánh giặc một cách chân thực: “điều tôi quan ngại nhất là tuyến phên giậu mà quan thái tể xếp vào tuyến một để ngăn giặc. Quan ngại ở chỗ các vị châu mục này rất hay dao động, thấy lợi liền quên nghĩa [...] Vậy xin chủ tướng và chư vị có kế gì để neo giữ họ lại. Tôi vẫn [...] không dám đặt trọn niềm tin vào họ” [121; 380]. Tập hợp nhiều điểm nhìn chủ quan của các nhân vật với tư cách là nhân chứng lịch sử trong “Tám triều vua Lý” có vai trò quan trọng để làm cho các nhân vật có thật tự hiện lên trực tiếp qua các hành động, lời nói hoặc suy nghĩ của chính mình như bản chất vốn có của chính nhân vật, làm tăng tính khách quan, độ tin cậy cho câu chuyện, đảm bảo nguyên tắc thể loại quy định về mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu trong giới hạn cho phép. Khi đọc tác phẩm này, ta thấy có lúc điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện cũng có lúc bình đẳng, ngang hàng, được chập lại, trùng với điểm nhìn hạn tri của nhân vật. Khi đó, ý nghĩa câu chuyện sẽ được soi sáng từ các dòng ý thức khác nhau qua trường nhìn của nhiều nhân vật với các điểm nhìn khác nhau, làm tăng tính đối thoại khách quan và tạo ra giọng phức điệu đa thanh của tiểu thuyết lịch sử. Đây là điểm nhìn chủ quan


của nhiều nhân vật khác về Lý Thái Tổ, với sư Vạn Hạnh: “Đây đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta, ban cho Đạo ta, để gỡ cho thế nước” [121; 50]; với người kể chuyện toàn tri: “Lý Công Uẩn [...] học đâu nhớ đấy, [...] không chỉ tiếp nhận các điều thầy giảng, hoặc các điều sách nói, mà ông còn biết suy nghiệm để tìm nhẽ phải quấy, đục trong” [121; 83]; với Đào Thạc Phụ: “Bệ hạ anh minh, định đô nơi linh địa ấy, dân sẽ được hưởng phúc muôn đời” và “Đại La là nơi đất bằng mà rộng rãi” [121; 90]; với Ngô Đinh: “bệ hạ lấy đức thiện để chiêu hóa thiên hạ, giáo hóa thiên hạ” [121; 172]. Song, ngôi kể thứ nhất nhân vật xưng “tôi” được các nhà văn cũng dùng nhiều trong các cuộc đối thoại, độc thoại hay độc thoại nội tâm mà tác giả trao điểm nhìn cho nhân vật để tạo ra nhiều tiếng nói khách quan, soi chiếu các vấn đề lịch sử từ vô vàn tiếng nói khác nhau của các nhân vật lịch sử với tư cách là người trong cuộc. Lúc này ranh giới của người kể chuyện toàn tri bị xóa nhòa, di chuyển sang điểm nhìn hạn tri của nhân vật, đồng nghĩa với việc nhân vật được tự do bình luận, nhận xét, đánh giá về nhân vật khác, tự bộc lộ suy nghĩ cá nhân về các vấn đề lịch sử: “Đó chính là một trong những biểu hiện sâu sắc về ý thức dân chủ, bình đẳng, sự thức tỉnh của cái tôi và chủ thể sáng tạo làm nên dấu ấn đặc biệt của TTLS Việt Nam sau năm 1986” [123].

Đan xen vào điểm nhìn hạn tri của nhân vật là điểm nhìn của người kể chuyện toàn tri bình luận trực tiếp về lịch sử một cách chân thật. Nghệ thuật tổ chức đan xen điểm nhìn cho thấy sự nỗ lực đổi mới các lớp cấu trúc thể loại của nhà văn để khái quát hiện thực lịch sử và phân tích chiều sâu tâm hồn con người. Đây là lời bình luận của người kể chuyện toàn tri về nguyên nhân suy thoái đi đến suy tàn của nhà Lý trong lịch sử để con người hôm nay rút ra các bài học, tránh các sai lầm của lịch sử: “nhà Lý có dấu hiệu suy vong từ thời Lý Thần tông và các triều đại sau đó đều trượt dài vào con đường u tối. Nhân tài ngày một cạn kiệt, các vua lên ngôi trong tuổi ấu thơ, quyền binh nằm trong tay mấy bà thái hậu ngu hèn, tham ố, chuyên bè đảng, mê đắm dục lạc... Thật ra sự mất còn của một triều đại tựa như sự chuyển xoay của thời tiết, điều đáng bàn là khi tồn tại nó đã làm được gì cho dân, cho nước, nó đóng góp được những gì cho tiến trình tiến hóa của dân tộc hay nó kéo lùi tiến trình đó lại khiến cho lịch sử phải bận tâm chê trách” [121; 942, 983]. Nhìn chung, điểm nhìn toàn tri của người kể chuyện ẩn mình ở ngôi thứ ba để kể chuyện, dẫn dắt, xâu chuỗi điểm nhìn nhân vật, tổng kết, đánh giá, bình luận một cách khách quan, trực tiếp các vấn đề lịch sử ở thời đại nhà Lý, tránh những thất bại, sai lầm của lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi kể thứ ba được sử dụng nhiều trong vai của người kể toàn tri ẩn mình trong toàn tác phẩm, biết hết, biết trước tất cả mọi chuyện để chủ động dẫn dắt sự phát triển của các mạch truyện, đảo tuyến nhân vật và kể về toàn bộ cuộc đời, số phận của các nhân vật lịch sử. Các nhà văn đã thể hiện nhiều nỗ lực trong việc đổi mới hình thức trần thuật, kết hợp điểm nhìn toàn tri và điểm nhìn hạn tri của các nhân vật, di chuyển điểm nhìn một cách linh hoạt, làm tăng tính khách quan, chân thật của lịch sử. Đặc biệt là tổ chức điểm nhìn của người kể chuyện trong sự kết hợp ngôi kể thứ ba và ngôi kể

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023