Giáo Huấn Về Vấn Đề Đại Đoàn Kết Dân Tộc


chứng, tích cực với chủ trương “Tam giáo đồng nguyên” và vận mệnh của quốc gia dân tộc. Mọi tư tưởng tôn giáo tích cực đều hướng về phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại đặt vấn đề bảo vệ quốc gia dân tộc lên hàng đầu như nhà Lý, vì thế vua Lý rất coi trọng đạo Phật và sử liệu vẫn còn ghi chép về sự thật lịch sử này: “Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông”[154; 99]. Tác giả đã chọn lựa, tổ chức sắp xếp số lượng lớn các nhân vật là các nhà sư, cao tăng, thiền sư, đạo sĩ thời Lý, làm toát lên tư tưởng tôn giáo biện chứng tích cực đã thấm sâu vào cuộc đời, chứ không siêu hình, không mê tín dị đoan. Chính quan điểm biện chứng tích cực về các vấn đề tôn giáo gắn với con người tâm linh đã chi phối sự triển khai cốt truyện, tổ chức các lớp kết cấu của tác phẩm. Giáo lý nhà Phật thấm sâu trong tác phẩm, đó là thứ triết lý luôn vận động, hướng đến những điều nhân văn, sự văn minh, tiến bộ. Tư tưởng Phật giáo nguyên sơ trong sạch, cao khiết, biện chứng, tích cực luôn được các nhà văn chiêm nghiệm, đối thoại trong những khát vọng nhân bản mang tầm phổ quát của nhân loại. Một nguồn sử liệu khác cũng ghi chép về đạo Phật thời Lý: “Với tính cách ôn hòa, thần bí, Phật giáo chóng ăn sâu vào lòng tín ngưỡng người Việt [...] Ba tông giáo Nho, Lão, Phật đã sớm thành cơ bản của tín ngưỡng dân Việt, và đồng thời tiến triển. Cho nên thường gọi là Tam giáo [...] thời nhà Lý, Phật giáo chiếm bậc nhất. Sư Pháp Thuận giúp Lê Hành, sư Vạn Hạnh giúp Lý Thái Tổ, sư Khuông Việt giúp Đinh Tiên Hoàng [...] chỉ có kẻ tăng đồ có đủ thì giờ để đọc nhiều, hiểu rộng [...] Năm 1019, Lý Thái Tổ lại độ dân khắp nước để làm tăng [...], các tăng giữ những việc giảng kinh hay giáo hóa [...] ảnh hưởng các vị ấy đối với chính trị cũng không ít [...] ảnh hưởng các nhà sư ban đầu trực tiếp tới chính trị” [127; 291- 301]. Các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng thấm đẫm bản sắc tôn giáo, tín ngưỡng của các sắc tộc được các tác giả tái hiện một cách sinh động và độc đáo trong các lễ hội truyền thống đều nhằm gắn kết để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chúng ta có thể tìm thấy tư tưởng tôn giáo tích cực “Tam giáo đồng nguyên” và Phật giáo, hình tượng các bậc thiền sư, đạo sĩ, cao tăng giáo huấn các vị vua nhà Lý trong đạo trị bình, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng và bảo vệ đất nước trong “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải. Các bài học giáo huấn về chính trị qua những tư tưởng đối thoại thẩm mỹ và hành động của các nhân vật theo chủ trương “tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo thấm đẫm giá trị nhân văn (bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan) định hướng “nhân đạo hóa con người” là nguồn cội để xây dựng đất nước phồn thịnh ở thời Lý, ví như việc “vua sai phát chăn chiếu cho tù, và cấp cho một ngày hai bữa cơm”. Vì thế, nhiều đời vua Lý đã thấm nhuần tư tưởng nhân đạo của Phật giáo để có những hành động thiết thực, sống gần dân, lấy dân làm gốc, yêu thương dân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân để làm thất bại các âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “bạo loạn lật đổ” của giặc ngoài qua việc giặc xúi giục hoàng tử Húc của Đại Việt kích động dân nổi loạn. Đây là bài học giáo huấn sâu sắc


về chính trị- tôn giáo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở giai đoạn đương đại, có ý nghĩa thời sự ở mọi thời đại.

Để miêu tả con người tâm linh, các nhà văn thường dùng bút pháp huyền thoại hóa với nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo, mang tính chất hư cấu tưởng tượng để tạo sức hấp dẫn người đọc qua cách dẫn dắt các câu chuyện khéo léo tài tình, đan cài cõi dương thế và chốn âm phủ, thần tiên, ma quái, Trời, Phật, tôn giáo, tín ngưỡng, phong thủy, lễ bái, sự gặp gỡ, đối thoại, kết nối giữa người sống và người chết theo kiểu trần sao âm vậy... Từ đó, tạo nên các hình tượng thực ảo trong không khí tâm linh huyền bí đặc biệt của xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu, kích thích trí tưởng tượng, làm người đọc nửa tin nửa ngờ với vô vàn trạng thái cảm xúc. Qua đó, người đọc suy cảm về cuộc đời và số phận con người, suy ngẫm về các chân giá trị, cách hành xử của con người. Bàn về con người tâm linh, Nguyễn Thanh Tú cho rằng: “Lịch sử gần với tâm linh, lịch sử càng xa càng được phủ dày những lớp huyền thoại. Các đền thờ Hưng Đạo Đại Vương có ở khắp nước ta cũng là một biểu hiện tâm linh ngưỡng vọng, sùng bái người anh hùng có công giữ nước, giữ hòa bình cho chúng sinh. Vì thế, một đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử là không thể thiếu yếu tố tâm linh… Đó không chỉ là câu chuyện thêm thắt mà còn là ý nghĩa Tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ (Nguyễn Trãi). Khi nước có giặc thì không chỉ thời hiện tại mà còn cả lịch sử hôm qua đánh giặc” [295]. Chẳng hạn như trong “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải, chi tiết Lý Thường Kiệt và Lê Hoàn dùng kế “thần linh” để đánh giặc, gây tổn thất lớn cho chúng về mặt tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta. Tác giả còn miêu tả nhiều chi tiết nói về giấc mơ của các vua nhà Lý được thần linh mách bảo, giúp sức, hỗ trợ đánh thắng giặc ngoại xâm. Bút pháp huyền thoại hóa còn thể hiện qua chi tiết thần kỳ miêu tả giấc mơ có vị “thần đến” với người đàn bà sinh ra vua Lý Thái Tổ, rồi chi tiết miêu tả thần lực đặc biệt của thiền sư Vạn Hạnh: “đêm nọ sư đang thiền lại nghe như rót vào tai từ bốn phía ngôi mộ của thân phụ Lý Công Uẩn đều có tiếng người thần ngâm thơ” [121; 47]. Nhà sư Vạn Hạnh có linh giác đặc biệt trong việc hóa giải việc làm trái đạo của nhân vật Cao Biền- người Trung Quốc sang trấn yểm, triệt phá long mạch hưng vượng của thành Đại La,… Ngoài ra, ta thấy trong hai tác phẩm “Tám triều vua Lý” “Bão táp triều Trần” của Hoàng Quốc Hải cũng có nhiều chi tiết tưởng tượng kỳ ảo, cho thấy việc nhà văn phát huy tính hư cấu qua bút pháp huyền thoại hóa để xoáy vào miêu tả mô típ giấc mơ của các vua Lý và vua Trần được thần mách bảo, đem quân giúp sức đánh giặc giữ nước.

Các vấn đề về phong thủy, long mạch, gia trạch, quốc trạch cũng được coi là vấn đề tâm linh gắn với đời sống tinh thần của con người, theo quan niệm dân gian thì vấn đề này có liên quan đến sự hưng thịnh hay diệt vong của cả quốc gia dân tộc. Vì thế, xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu còn đưa cả các nhân vật là những ông thầy địa lý giỏi phong thủy long mạch, biết xem các phương hướng, long mạch tốt để giúp vua đưa ra các quyết định lịch sử mang lại cuộc sống giàu có, hưng vượng cho nhân dân. Đây là tuyến nhân vật


phụ được hư cấu, có vai trò phụ trợ, bổ sung, giải thích, làm sáng rõ nhân vật có thật nhằm tạo nên một bức tranh đời sống hoàn chỉnh, muôn màu muôn vẻ, độc đáo, sinh động cho tác phẩm. Ví dụ trong tác phẩm “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải, chi tiết nhân vật Cao Biền triệt phá long mạch hưng vượng của thành Đại La đã được sư Vạn Hạnh hóa giải, chi tiết vua Lý dặn con phải giữ long trạch quốc gia để nhân dân, đất nước phát triển cường thịnh muôn đời: “hồ Dâm Đàm này (tức Hồ Hoàn Kiếm) là một đại huyệt của nước Nam. Đây là vùng tụ khí của cả miền linh địa; hồ này chính là não thủy của Thăng Long. Vậy nên phải giữ để cho không bao giờ nước hồ cạn kiệt, không được san lấp mặt hồ” [121; 618]. Trong tác phẩm “Tám triều vua Lý”, ta thấy con người tâm linh gắn với các vấn đề văn hóa tâm linh còn được hiện lên qua việc vua Lý Thái Tổ xem phong thủy của thành Đại La và quyết định dời đô về Thăng Long- Hà Nội ngày nay để nhân dân, đất nước phát triển giàu mạnh muôn đời. Điều này thể hiện tư tưởng hướng về nguồn cội, biết ơn tổ tiên, trời đất, tin vào các bậc tiên tổ ở cõi vĩnh hằng vẫn dõi theo và phù hộ độ trì những điều tốt đẹp cho con cháu hôm nay.

Các nhà văn đổi mới trong việc không né tránh các vấn đề tâm linh, mà phân tích nó trong mối quan hệ với văn hóa phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc... để “thám hiểm” đáy sâu vô tận đời sống tinh thần của con người, hướng đến mục tiêu chính trị đúng đắn. Nhiều nhà văn trước đây ngại, có xu hướng né tránh, không dám động chạm đến vấn đề tôn giáo tâm linh, vì sợ bị phê phán lối tư duy theo tư tưởng mê tín dị đoan. Nhưng thực ra thì không phải vậy, nếu nhà văn biết chắt lọc những vẻ đẹp trong sạch, thuần khiết từ vấn đề tôn giáo, tổ chức, sắp xếp, miêu tả bằng quan điểm biện chứng duy vật, tư duy chính luận sắc sảo, dùng các thủ pháp nghệ thuật độc đáo, quản lý chặt các hình tượng nghệ thuật bằng việc khẳng định mặt tích cực, phủ định các mặt tiêu cực của các vấn đề nói trên, thì vẫn có thể sáng tác ra các tác phẩm giàu giá trị. Đặc biệt là vấn đề cuồng tín tôn giáo, phải ngăn chặn sự lợi dụng tôn giáo nhằm tư lợi mà lừa bịp dân chúng theo tà đạo, gây những tác động xấu đến xã hội. Nhà văn phải biết chắt lọc được tinh hoa văn hóa nhân loại, các giá trị thẩm mỹ từ lĩnh vực tôn giáo để thúc đẩy sự phát triển của xã hội hôm nay và thuyết phục được người đọc hướng đến các giá trị “Chân- Thiện- Mỹ” bằng quan điểm biện chứng, tích cực đối với các vấn đề tôn giáo gắn với con người tâm linh. Từ đó, người đọc điều chỉnh các quan niệm trong đời sống tâm linh theo hướng biện chứng, tích cực, tránh mê tín dị đoan, không mù quáng theo tà đạo, ngăn chặn tiêu cực của một số ít thành phần cực đoan trong xã hội lợi dụng vấn đề tôn giáo làm điều bất chính, lừa bịp nhân dân. Đúng như nhà văn Nguyễn Khải chia sẻ những “bận tâm đặc biệt về tôn giáo” và “mối quan hệ của tôn giáo với văn học”, ông nói: “Trước đây, khi nói tới tôn giáo là tôi nghĩ ngay tới mặt tiêu cực của nó”. Nhưng từ sau ngày thống nhất đất nước, “buộc tôi phải nghĩ thêm tới mặt tích cực của tôn giáo, một khi nó trở lại cội nguồn”, là “niềm tin tôn giáo trong sáng” [182; 186].


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

3.2.3. Giáo huấn về vấn đề đại đoàn kết dân tộc

Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu phản ánh những vấn đề trọng đại của quốc gia dân tộc, nhằm giáo huấn bài học phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và tư tưởng “lấy dân làm gốc” qua việc phản ánh số phận của cá nhân và vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Trong xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu, nhà văn miêu tả những con người có thật của quá khứ chính là chủ thể làm nên lịch sử, cụ thể đó là nhân dân. Đích đến của mọi cuộc cách mạng ở mọi thời đại là đấu tranh cho quyền độc lập, tự do, bình đẳng, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, sự phát triển tốt đẹp, nhân văn, nhân ái, tất cả vì con người. Nhân dân có vai trò quan trọng gánh sứ mệnh đó cùng với triều đình.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ thể loại - 12

Trong xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu, nhân vật quần chúng được xác định cụ thể đó là nhân dân - những con người nghèo khổ, mộc mạc, bình dị, hiền lành, thật thà, đôn hậu, chất phác, tha thiết yêu quê hương đất nước, sống trong tình làng nghĩa xóm chân thành ấm áp, sâu đậm tình người được nhà văn khám phá trong đời sống tập thể và đời tư thế sự. Điều này được thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải, ví dụ như chi tiết miêu tả vẻ đẹp của quần chúng nhân dân một lòng đoàn kết trong sự nghiệp giữ nước: “cuộc kháng Tống thu hút lòng dân. Muôn người, muôn nhà đều sẵn sàng” để “đánh đuổi ngoại xâm” và “mọi người đối xử với nhau đều yêu thương gần gũi. Ai có hoạn nạn thì xóm giềng tìm đến giúp. Chính quyền từ hương thôn đến trấn, lộ và triều đình chỉ còn một việc là lo phục vụ cho đại quân quét sạch ngoại xâm” [121; 423].

Quần chúng nhân dân là những người trực tiếp giúp các triều đại trong lịch sử chuẩn bị mọi mặt về tinh thần và vật chất để chống giặc ngoại xâm. Họ được tập hợp trong các tổ chức cách mạng, các đoàn thể yêu nước mà triều đình thành lập trên khắp các mặt trận ở khắp nơi trong và ngoài nước để làm thất bại âm mưu xâm lược của mọi kẻ thù bên ngoài. Ví dụ như trong “Bão táp triều Trần” của Hoàng Quốc Hải, hình ảnh nhân dân được hiện lên qua hình ảnh nhiều người làm nhiều nghề khác nhau tại nước ngoài để làm ngoại gián, phòng mưu đồ xâm lược của giặc Mông- Nguyên, đó còn là hình ảnh các cụ già, các bô lão yêu nước sục sôi khí thế đánh giặc, bảo vệ đất nước. Khi giặc đến, các cụ già không đi lánh mà ở lại để đánh giặc cùng con cháu, viết các khẩu hiệu giăng kín phố phường, giăng khắp cả nước các dòng chữ “SÁT THÁT”, “Thanh dã”, “Tất cả các quận, huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến thì phải liều chết mà đánh. Nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” [120; 326]. Các cụ còn giúp vận chuyển các hòn chông mũi ngắn bằng sứ đến các tướng lĩnh để bẫy ngựa của giặc, làm chúng thất bại nặng nề ở bờ bắc sông Thiên Đức. Ý chí đánh giặc giữ nước của các cụ già đại diện cho quần chúng nhân dân còn thể hiện rõ trong Hội nghị tại bến Bình Than và Hội nghị Diên Hồng khi tất cả đồng thanh hô vang: “ĐÁNH! ĐÁNH”. Sử liệu vẫn còn ghi chép lại sự thật lịch sử này: “Vua Nguyên sai [...] Thoát Hoan, A Lạt và bọn A Lý, Hải Nha đem quân Thát cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành [...] Thượng hoàng cho gọi các phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, cho ăn và hỏi kế. Các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người


cùng lời như một” [77; 303]. Đó là những hình ảnh tiêu biểu cho quần chúng nhân dân cùng đoàn kết lại trong sự nghiệp giữ nước, truyền ý chí, nghị lực, bản lĩnh chiến đấu, truyền tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và kinh nghiệm quý báu cho lớp con cháu mai sau. Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu rất chú trọng miêu tả, tô đậm ý thức, trách nhiệm công dân của con người tập thể bằng quan điểm chính luận sâu sắc nhằm giáo huấn. Con người tập thể- quần chúng nhân dân đã nhập vai, hóa thân vào lịch sử để thể hiện tư tưởng đoàn kết, nguyện vọng, tình cảm, tâm trạng, khát vọng chính nghĩa của nhân dân trong việc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, công bằng cho mọi kiếp người. Nhiều khi nhà văn để cho chính quần chúng nhân dân là người kể lại các câu chuyện lịch sử từ quan điểm của chính họ, làm hiện thực lịch sử được hiện lên một cách chân thật, sống động, giàu sức lay động trái tim người người đọc, khiến ta xúc động, tự hào, vui buồn với những con người có thật trong đời sống quá khứ.

Nhà văn viết theo xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu đã miêu tả rất tinh tế, sâu sắc tâm lý chung của quần chúng nhân dân như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến, miêu tả tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình quân dân cá nước thắm thiết sâu nặng, tình cảm tiền tuyến hậu phương,… nhằm gửi đến người đọc bài học giáo huấn vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều hướng về triều đình để xây dựng và bảo vệ non sông đất nước. Điều này được thể hiện trong tác phẩm như “Tám triều vua Lý”, Hoàng Quốc Hải đã dùng câu hỏi tu từ và đại từ “Ai” mang tính phiếm chỉ nhưng cũng hàm chỉ quần chúng nhân dân, để nhấn mạnh, xoáy sâu vào lòng người đọc: vai trò đặc biệt quan trọng của sức mạnh đoàn kết muôn dân trong sự nghiệp giữ nước: “Ai đã đắp lên lũy ải trường thành dài suốt mấy trăm dăm tại nam ngạn sông Như Nguyệt để ngăn bước quân thù không cho nó giày xéo lên lăng miếu của tổ tông, không cho nó đặt bước chân nhơ bẩn lên kinh thành Thăng long? Ai xung quân đông đến cả chục, cả mấy chục vạn người? Ai xông vào trại giặc, hy sinh xương máu, bỏ lại cha mẹ già yếu, vợ góa con côi?- Chính là dân đó!” [121; 579]. Sử liệu vẫn còn ghi chép về sự kiện Lý Thường Kiệt chống giặc Tống trên sông Như Nguyệt: “Năm 1077, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn sang Việt Nam ta. Một lần nữa, Lý Thường Kiệt vừa là người vạch kế hoạch, lại cũng vừa là người trực tiếp chỉ huy thực hiện một cách xuất sắc. Ông cho lập phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) [...] chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây của Trung Quốc vào Thăng Long [...] Như Nguyệt là một trong những trận quyết chiến chiến lược tuyệt vời của lịch sử dân tộc [...] tên tuổi và sự nghiệp của Lý Thường Kiệt mãi mãi tỏa sáng trong sử sách và trong niềm tự tôn dân tộc mãnh liệt của các thế hệ nhân dân ta [...] Ông được lịch sử ghi nhận là anh hùng kiệt xuất, một con người hiến dâng cả tâm hồn và sức lực cho sự nghiệp độc lập của Tổ quốc” [141; 45-48]. Bên cạnh đó, Hoàng Quốc Hải còn miêu tả lời nói của nhân vật Lê Văn Thịnh đã ghi nhận một cách chính xác, khách quan sức mạnh của khối đại đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân


trong cuộc chiến chống giặc Tống: “Đúng là không có dân ta sao thắng nổi giặc” và “cái ải lũy tại nam ngạn sông Như Nguyệt lừng lững như một dãy núi dài mấy trăm dặm, kéo suốt từ ngã ba sông Cà Lồ về tận Vạn Xuân mới thấy được sức dân đổ vào đấy nhiều như nước. Nay tuyệt dứt chiến tranh đi để cho dân lại sức” và “đi vào sản xuất lâu dài, ổn định đời sống cho người dân” [121; 638]. Vì xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu hướng đến bài học giáo huấn, nên lịch sử được kể lại từ một góc nhìn nhất định, các nhà văn thường phục hiện lại diễn trình lịch sử một cách toàn vẹn qua việc kết nối nhiều sự kiện và nhân vật có thật trong toàn bộ hệ thống trần thuật bằng lối tư duy truyền thống theo quan điểm chính luận với việc coi trọng kết hợp hài hòa yếu tố lịch sử và hư cấu, chứ không nhằm mục đích “giải thiêng” hay viết đảo lại lịch sử từ những góc nhìn cá nhân như xu hướng TTLS đối thoại với sử liệu. Kết thúc tác phẩm không đóng lại mà những câu chuyện lịch sử tiếp tục sống trong suy nghĩ, chiêm nghiệm của người đọc, nhà văn lật lại vấn đề lịch sử chứa đựng trong những trang sử liệu để tìm ra những bài học quý báu về vấn đề đại đoàn kết dân tộc cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn của cuộc sống đương đại.

Xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu miêu tả con người tập thể chính là quần chúng nhân dân yêu nước, giác ngộ cách mạng, được tập hợp trong các tổ chức yêu nước, có ý thức sâu sắc về sức mạnh đoàn kết cộng đồng, đưa đất nước vượt qua các biến cố lịch sử, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng. Nhân vật quần chúng nhân dân được miêu tả nổi bật với vẻ đẹp của sức mạnh đoàn kết tập thể, thống nhất cả từ phương diện đời sống tập thể và đời tư thế sự. Quần chúng nhân dân được miêu tả là những con người có đạo đức cách mạng trong sáng, mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát, toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp cách mạng chung của đất nước, sống hết mình, chan hòa trong đoàn thể và gắn bó sâu sắc trong tình làng nghĩa xóm. Tình quân dân đoàn kết, gắn bó sâu nặng của quần chúng nhân dân ở thời triều đình nhà Lý lãnh đạo đất nước được Hoàng Quốc Hải miêu tả cảm động trong tác phẩm “Tám triều vua Lý”: “các cơ quan đầu não vẫn yên vị tại Thăng Long. Phố xá vẫn buôn bán sầm uất”, “các làng nằm sát bờ nam sông Như Nguyệt, người già, trẻ nhỏ đã di tán” để “nhường nhà cửa cho quân đội đồn trú. Trai tráng phần nhiều đã đầu quân. Những người đứng tuổi lập thành các đội dân binh giúp vào việc giữ gìn an ninh làng xóm và vận chuyển lương thực, nấu cơm hoặc đem cơm cho các đô quân đang ứng trực ở ngoài bờ sông” [121; 406]. Sử liệu vẫn còn ghi chép lại sự kiện lịch sử Lý Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống trên sông Như Nguyệt: “Tháng chạp năm Bính Thìn (1076) quân nhà Tống vào địa hạt nước ta. Lý triều sai Lý Thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như Nguyệt” [154; 110]. Trong tác phẩm này, nhà văn đã miêu tả hình ảnh nhân dân quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, làm sống lại không khí lịch sử hào hùng, sức mạnh quật cường, ý chí gang thép, bản lĩnh vững vàng, kiên định, nghị lực phi thường của toàn dân tộc ở thời Lý: dân phu ở “các lộ kéo về ngày một đông, người ken kín mặt đất, cờ cắm rợp trời, tiếng hò tiếng hát cứ vang dội suốt ngày”. Nhân


dân cả nước trên dưới đồng lòng đánh giặc giữ nước trong niềm vui: “Cả nước đổ sức vào chiến lũy để ngăn giặc” trong không khí “náo nức đông vui như ngày hội” và “người từ các nơi cứ ùn ùn kéo về rộn rã, khắp trong cả nước, đâu đâu cũng thấy các điền binh luyện tập” [121; 325, 326]. Nhân dân đào đắp lũy thành suốt ngày đêm để lập phòng tuyến chống giặc Tống trên sông Như Nguyệt, làm thất bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Các nhà văn viết theo xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu thường miêu tả hình tượng con người tập thể trong khối đại đoàn kết vững chắc là những con người yêu nước, dũng cảm, kiên trung, tự vùng dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Ví dụ trong tác phẩm “Bão táp triều Trần” của Hoàng Quốc Hải, quần chúng nhân dân được miêu tả trong cuộc diễn tập đại trận thủy bộ. Ta thấy hình ảnh quân dân trong cuộc diễn tập này toát lên sức mạnh của tình đoàn kết, cùng chung chí hướng, lý tưởng, đều bình thản, bản lĩnh vững vàng, tin tưởng vào sức mình. Nhân dân đã bầu ra một Hội đồng Tứ Khoát và Ban Chống giặc bảo vệ quê hương do những người nhiều tuổi từ trung niên đến thiếu lão có đạo đức và tri thức đứng ra để đôn đốc toàn dân thực hiện các việc triều đình thông báo. Toàn dân sôi sục ý chí đánh giặc giữ nước giữ nhà, dân làng viết các khẩu hiệu tuyên truyền “Tất cả các quận huyện trong nước nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” lặp đi lặp lại [120; 145, 264]. Nhân dân còn viết các khẩu hiệu cảnh cáo giặc “Kẻ nào xâm phạm cõi bờ Đại Việt làm rối loạn nhân dân là kẻ kháng mệnh thiên tử phải trị tội” [120; 148]. Quần chúng nhân dân còn giăng kín các lối đi, ngọn cây các khẩu hiệu thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc như “Quân giặc muốn thoát chết hãy quay đầu trở về Bắc quốc” [120; 197]. Nhân dân chính là người sản xuất ra lúa gạo để phục vụ cách mạng, họ vui vẻ, phấn khởi báo cáo với các tướng lĩnh về tình hình thôn ấp mình: “Ai việc nào cứ việc đó mà làm” và “vụ chiêm vừa qua dân hương ấp gặt xong, chân năm tay mười lo liệu cho việc cày cấy vụ mùa ngay”. Nhân dân vui mừng, phấn khởi vì “vụ chiêm vừa rồi lại bội thu” và “dân tôi no đủ ca hát cả ngày. Ban ngày đi làm đồng vừa làm vừa hát, tối về lại tụ họp chia bè hát”. Nhân dân sẵn sàng đánh bại các thế lực ngoại xâm, họ nói: “Nếu giặc Bắc lại sang thì ta lại đánh giặc Bắc lo gì” [120; 149]. Khi giặc đến, nhân dân bàn nhau tìm sang cửa Vạn Kiếp của Hưng Đạo để được vác giáo dưới cờ giết giặc ở chốn sa trường. Binh sĩ rầm rập kéo lên biên thùy trấn giữ các vùng trọng yếu, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng gia đình thân yêu, tự nguyện ra trận đánh giặc vì nghĩa lớn, bảo vệ độc lập, tự do. Quần chúng nhân dân trong khắp cả nước sục sôi khí thế giết giặc lập công, dân binh ngày đêm luyện tập, nhân dân ngày đêm lao động sản xuất, mở đường, tải lương, vận chuyển binh khí ra chiến trường phục vụ cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Qua đó, ta thấy con người người tập thể- quần chúng nhân dân được miêu tả đậm nét ở các mặt vẻ đẹp ý chí, nghị lực, bản lĩnh, khát vọng cao đẹp, tinh thần đoàn kết.


Quần chúng nhân dân trong TTLS dụ ngôn hóa sử liệu được miêu tả là những con người tập thể nhận thức rõ quan điểm chính trị của các triều đại trong lịch sử, ý thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng độc lập dân tộc, quyền tự do và chủ quyền quốc gia. Vì thế, họ luôn suy nghĩ và hành động vì tập thể, đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết. Ví dụ như trong Tám triều vua Lý, Hoàng Quốc Hải đã miêu tả nhân dân đoàn kết một lòng, kề vai sát cánh cùng triều đình và tướng lĩnh quân đội đánh bại mọi âm mưu xâm lược của giặc Chiêm và Tống. Cảnh nhân dân vác cờ hiệu đông nghịt đi đắp thành lũy chiến hào chống giặc trên sông Như Nguyệt được miêu tả hùng tráng: “Buổi sớm [...] thôn ấp đều chìm trong sương. Tiếng chó sủa, [...] tiếng người gọi nhau í ới báo hiệu trời đã sáng […] ba tiếng trống dội ra từ một ngôi làng nào đó. Và như làn sấm nổ dây chuyền từ làng này sang làng khác òa vỡ ra khắp bốn phương tám hướng. Dân từ trong các hương ấp túa ra […] những trai trẻ khỏe mạnh. Người nào người ấy vác mai, cuốc, dao phát, quang gánh, đòn khiêng […] hướng về phía bờ nam sông Như Nguyệt” [121; 324]. Qua đó, ta thấy hình ảnh nhân dân đoàn kết, yêu nước, thủy chung một lòng, gắn bó sâu sắc với cách mạng, đứng về phía triều đình và quân đội nhà Lý để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, chủ quyền của đất nước được miêu tả cụ thể, chân thực, sống động. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng. Nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, họ bị áp bức bóc lột, nên nhận rõ bạn thù, cùng nhau đau đoàn kết lại, vùng lên đấu tranh để bảo vệ đất nước mình. Sau khi chiến tranh kết thúc, nhân dân lại tiếp tục bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng đất nước: “Thời gian quân Tống vào xâm lược nước ta” và “Nhờ sự đoàn kết muôn người như một từ triều đình đến dân chúng, nên cuộc chiến đã kết thúc thắng lợi” [121; 550]. Sau khi đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, dân ta “được mùa to. Một vụ mùa bội thu, dân nước khắp nơi mở hội”. Trong nước “từ dân thường đến kẻ kĩ”, ai cũng “đều ngợi ca ân trạch của triều đình” [121; 582, 594]. Vì thế, người lãnh đạo ở thời nào cũng đặc biệt chú trọng chăm lo đời sống nhân nhân, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân, tạo mọi điều kiện tốt nhất để nhân dân phát triển giàu mạnh, ổn định, hạnh phúc, đảm bảo mọi lợi ích chính đáng của dân để thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước ở mọi thời đại.

Tóm lại, qua xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu để giáo huấn, ta thấy nhân dân chính là những người đã làm nên lịch sử, các nhà lãnh đạo muôn đời cần thấy được sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính nghĩa, nền độc lập, tự do, hòa bình và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoài trong trường kỳ lịch sử. Nhân dân ủng hộ, trên dưới một lòng đoàn kết, ắt sự nghiệp chính trị cách mạng của dân tộc sẽ giành thắng lợi. Song, những người giữ vai trò lãnh đạo các cấp cần chọn hiền tài từ trong dân, thấu hiểu lòng dân, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của dân, chăm lo, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân để dân giàu nước mạnh, không bị thế lực thù nào lôi kéo, dụ dỗ, thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước muôn đời.

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 23/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí