Khái Niệm Nhân Vật Văn Học Và Nhân Vật Lịch Sử Trong Tiểu Thuyết Lịch Sử

CHƯƠNG 2

NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG GIÀN THIÊU

2.1 Khái niệm nhân vật văn học và nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử

2.1.1 Nhân vật văn học

Nhân vật văn học hiểu đơn giản thì đó là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”. Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thực trong đời sống”[34;tr235]. Nhân vật văn học là kết quả sáng tạo của nhà văn. Nó có thể có tên riêng như: Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha hoặc không có tên riêng như: thằng bán tơ, mụ nào, thị..hoặc là một ẩn dụ chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Dù là theo hình thức nào thì nhân vật cũng là đối tượng để nhà văn phản ánh cuộc sống và quan niệm nghệ thuật của mình. Với mỗi một thời kì lịch sử có một kiểu nhân vật tương ứng. Kiểu nhân vật này có được là do quá trình quan sát, tìm tòi, sáng tạo của nhà văn trước hiện thực bộn bề của cuộc sống. Thông qua nhân vật nhà văn bộc lộ những suy nghĩ kín đáo nhất của bản thân, gửi gắm những thông điệp nghệ thuật của mình.

Nhân vật văn học thường được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn của nhân vật này vầ nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với nhân vật khác. Dựa vào nhiều tiêu chí mà người ta phân chia nhân vật thành: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, dân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng…

Trước 1975, nhân vật trong văn xuôi Việt Nam thường bị chi phối bởi khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nên các nhân vật được xây dựng với vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ, nhân vật được bao bọc trong “ bầu không khí vô trùng” nhằm phục vụ việc ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong

những sáng tác thuộc thời kì này, nhân vật mới chỉ được chú ý đến phương diện khách thể như: ngoại hình, phẩm chất, tính cách, tâm lý… và quan tâm xem những phương diện đó có được cá tính hóa hay không…ít có nhân vật nào mang trong mình những phức tạp nội tâm, dằn vặt, tính toán. Nhân vật được xây dựng theo đúng tuyến rõ ràng: ta – địch, tốt – xấu, cao cả - thấp hèn, các tuyến nhân vật thường trùng khít với chức năng xã hội mà nhân vật đó đảm nhận. Đời tư và những phức tạp nội tâm nhân vật là điều các nhà văn bỏ qua hoặc không chú ý thể hiện. Cách xây dựng nhân vật ở hầu hết các tác phẩm văn xuôi 1945 – 1975 đều mang tính quy phạm: ta thắng, địch thua, cái mới thắng cái cũ, nhân vật là người phát biểu hết toàn bộ chủ ý của tác giả một cách khiên cưỡng. Nhưng với sự thay đổi của thời đại và sự ra đời của quan niệm nghệ thuật đúng đắn về con người, cách tiếp cận, nhìn nhận một nhân vật văn học cũng đã dần thay đổi.

Sau 1986, cách xây dựng nhân vật văn học đã có nhiều thay đổi đáng chú ý. Nhân vật không nằm trong vòng tròn khép kín và bất biến nữa mà mang nhiều yếu tố bất ngờ. Nhân vật hiện lên chân thực, gần gũi hơn, với đủ cả “rồng phượng lẫn rắn rết”, “thiên thần và ác quỷ”… xen kẽ lẫn nhau. Thế giới nhân vật không còn sự phân tuyến rành mạch giữa chính diện và phản diện nữa. Không gian đời tư được khai thác triệt để để bộc lộ tính cách nhân vật. Nội tâm của nhân vật với những rung động nhỏ bé, sâu xa nhất cũng được các nhà văn tìm tòi, khám phá. Do đó mà văn xuôi sau 1975 đã đi vào khám phá thân phận con người với những góc nhìn đa chiều, tinh tế và sâu sắc như hiện thực cuộc sống vốn có vậy. Sáng tạo của văn học bao giờ cũng gắn với con người, mà con người được biểu hiện qua các nhân vật văn học vì vậy mà nhân vật văn học luôn là cơ sở mà người đọc sẽ phải tìm hiểu nếu muốn chiếm lĩnh được ý đồ và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm trong tác phẩm.

2.1.2 Nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

2.1.2.1 Tiểu thuyết lịch sử

Từ xưa đến nay đề tài lịch sử vẫn luôn là đề tài được quan tâm đặc biệt và không thiếu các tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Đề tài này đã sớm được khai thác nhưng sự nhận thức về nó một cách đúng đắn, đầy đủ vẫn là yêu cầu được đặt ra. Cùng với tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, đề tài này tiếp tục được khai thác, nhìn nhận, khám phá ở những góc nhìn sâu sắc, tinh tế và hấp dẫn hơn. Đề tài này được khai thác ở hầu hết các thể loại văn học nhưng đạt thành tựu và để lại dấu ấn hơn cả là thể loại tiểu thuyết lịch sử. Khi nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử, người ta thường chú trọng đến vấn đề sự thực lịch sử và hư cấu văn học. Dựa trên mức độ tính chân thực của lịch sử và hư cấu của văn học mà người ta có thể chia tiểu thuyết lịch sử ra làm hai nhóm, hai khuynh hướng.

Đề tài lịch sử trong sáng tác của Võ Thị Hảo Qua tiểu thuyết Giàn Thiêu - 4

Khuynh hướng tái hiện toàn bộ lịch sử ở một giai đoạn nào đó với những biến động xã hội dưới sự tác động của nhân vật lịch sử. Khuynh hướng này thường gắn với hệ tư tưởng chính thống và tạo ra không khí sử thi oai nghiêm, hoành tráng. Khuynh hướng thứ hai là tái hiện nhân vật lịch sử với những số phận cụ thể và thông qua nhân vật tác giả bộc lộ cái nhìn của thời đại mình, hoặc dùng nhân vật như một phương tiện để gửi gắm những suy nghĩ về cuộc sống. Mỗi khuynh hướng thích hợp với từng thời kỳ văn học. Văn học trước 1975 mang khuynh hướng thứ nhất với cái nhìn nhận, đánh giá, phê phán theo quan điểm đậm chất chính sử như: Trùng quang tâm sử (Phan Bội Châu), Đêm hội Long trì, Lá cờ thêu sáu chữ vàng (Nguyễn Huy Tưởng), Cái hột mận (Lan Khai)…Văn học sau 1975 đặt ra yêu cầu mới về đề tài lịch sử, lịch sử được nhắc đến với sự đối thoại, yêu cầu nhận thức lại chứ không còn là sự sùng kính tuyệt đối như trước nữa. Do đó mà “ tính hư cấu của tác phẩm ngày một đậm, bên cạnh nghệ thuật hư cấu từ những nhân vật và sự kiện lịch sử có thật ngày càng xuất hiện nhiều những nhân vật và sự

kiện hoàn toàn do trí tưởng tượng của nhà văn”[55;tr 68]. Phan Cự Đệ chia các nhà tiểu thuyết lịch sử thế kỉ XX ra làm hai nhóm: “Một số nhà văn lấy việc tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là chính… Ở đây lịch sử được coi là cứu cánh. Một số khác chỉ coi lịch sử là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết tiểu thuyết. Họ tập trung vào xây dựng nhân vật tư tưởng hoặc thông qua lịch sử đặt ra vấn đề cho hôm nay, cho mai sau…[19;tr 187]

Trong tiểu thuyết Vằng vặc sao khuê ( Hoàng Công Khanh) tác giả chia nhân vật ra làm hai tuyến: Tuyến những nhân vật lịch sử thì tác giả giữ lại những nét chính, chỉ giải thích hoặc cải chính sự kiện lịch sử theo quan điểm của nhà văn, còn tuyến nhân vật quần chúng vô danh do nhà văn tưởng tượng ra để diễn giải lịch sử theo ý mình. Tiểu thuyết Giàn thiêuthuộc nhóm tác phẩm viết về nhân vật, sự kiện lịch sử có thật nhưng không nhằm giải thích lịch sử mà nhằm nói về số phận của con người dưới quyền lực chính trị.

Có nhiều quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Văn Lợi cho rằng : “tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng tiểu thuyết nhưng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật”[51].

Phan Cự Đệ cũng khẳng định vai trò của hư cấu và sáng tạo nghệ thuật nhằm làm xóa đi những điểm trắng của lịch sử. Với dữ liệu lịch sử cùng với sự hư cấu, phóng đại, trí tưởng tượng phong phú, tài năng sáng tạo của nhà văn mà cùng một giai đoạn lịch sử nhưng mỗi một nhà văn có cách nhìn nhận, cách khai thác, cách viết riêng, tạo ra được cái nhìn đa diện cho người đọc.

Nhân vật lịch sử là những người có thật, nổi tiếng, có tên tuổi được lịch sử nhắc đến như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…Viết tiểu thuyết lịch sử là nhà văn phải khai thác một số cuộc đời có thật, phải dùng các dữ liệu lịch sử. Cùng với những điều đó và trí tưởng tượng, sự sáng tạo của mình làm sống lại lịch sử xóa đi những “khoảng cách sử thi”, làm cho những câu chuyện xa xưa cũng mang hơi thở của thời đại.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam xuất hiện ở thế kỉ XVIII với Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)…Những tiểu thuyết này vẫn còn mang nặng nội dung sử biên niên, mang đặc trưng quan niệm tiểu thuyết giai đoạn đó, chưa có những sáng tạo nghệ thuật đáng chú ý. Nhưng theo dòng phát triển của văn học, tiểu thuyết lịch sử đã không ngừng chuyển mình và đạt nhiều thành quả, có xu thế ổn định với tư cách một thể loại. Sau năm 1986, các tiểu thuyết lịch sử càng lúc càng có sự đầu tư công phu cả về số lượng và chất lượng. Nhiều tác phẩm có quy mô đồ sộ như: Mẫu thượng ngàn, Hồ Quý Ly ( Nguyễn Xuân Khánh), Tây sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải)…Với những dữ liệu lịch sử hấp dẫn cùng với sáng tạo, hư cấu, các tác giả đã dựng lên một không khí sử thi hào hùng, đồ sộ nhưng cũng không kém phần bi thương, đáng suy nghĩ.

Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh là một tiểu thuyết lịch sử được đánh giá cao. Tác phẩm viết về cuộc khủng hoảng sau thế kỉ XIV, về sự suy thoái của vương triều Trần. Nguyễn Xuân Khánh đã bỏ ra hai mươi năm trời để nghiên cứu đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật, đọc các tác phẩm sử học, triết học, văn hóa… cùng với sự am hiểu sâu sắc về lịch sử của mình, tác phẩm đã tái hiện được giai đoạn 1370 – 1400 là giai đoạn suy vi và khủng hoảng của vương triều Trần. Tác phẩm xuất hiện nhiều nhân vật quan trọng của lịch sử : vua Dụ Tông, vua Nghệ Tông, vua Duệ Tông, vua Thuận Tông, các tướng lĩnh Trần Khát Chân, Nguyễn Đa Phương, Nguyễn Đán, Nguyễn Uyên, Hồ Hán Thương, Nguyễn Cảnh…Nhân vật nổi loạn : Phạm Sư Ôn, giặc Chiêm thành Chế Bồng Nga… Tác phẩm cũng tái hiện nhiều biến cố quan trọng của lịch sử như: Cuộc chiến với quân Chiêm thành, Hồ Quý Ly viết Minh đạo, xây dựng Tây Đô và mở hội ở Đốn Sơn… Tác phẩm cũng nhằm thể hiện xung đột mới cũ trong vương triều ở thời suy vi, lụi tàn. Tác phẩm tập trung tái hiện lịch sử dựa vào các nhân vật lịch sử. Số lượng nhân vật có thật của

lịch sử chiếm hầu hết số lượng nhân vật trong tác phẩm. Lịch sử của vương triều được trải dài trong suốt tác phẩm. Thế nhưng đây không phải là một tác phẩm sử kí, mà nhà văn chỉ sử dụng những sự kiện lịch sử xoay quanh nhân vật Hồ Quý Ly để thể hiện ý đồ ghệ thuật của mình. Hồ Quý Ly là nhân vật trung tâm của tác phẩm kết dính toàn bộ câu chuyện, là nhà cái cách mới mẻ trên cái nền đổ nát và lụi tàn của vương triều Trần. Từ đó tác giả muốn khẳng định vai trò của nhân vật này với công cuộc cải cách đất nước đầy táo bạo, mới mẻ. Việc bám rất sát các sự kiện lịch sử không làm cho câu chuyện trở nên khô cứng, quen thuộc mà lại làm cho lịch sử hiện lên thật sống động.

Cũng trong dòng cảm hứng yêu cầu nhận thức và đối thoại với lịch sử , bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải) cũng viết về triều Trần nhưng theo một hướng khác. Ở cuốn tiểu thuyết này ta thấy tiểu thuyết lịch sử đã mang đúng với bộ mặt, đặc trưng thể loại của nó. Hoàng Công Khanh đã nhận xét “thế nào là tiểu thuyết lịch sử? lấy gì làm chuẩn mực để phân biệt đâu là tiểu thuyết lịch sử nói chung? Câu trả lời chính xác nhất ở trong nội dung của tác phẩm, ở ngay trong bộ tiểu thuyết lịch sử về đời Trần của Hoàng Quốc Hải”. Quả đúng như vậy, bằng 4 tập của bộ tiểu thuyết, nhà văn đã xây dựng được một bức tranh lịch sử đồ sộ, vừa hào hùng vừa đau khổ, để lại cho hậu thế nhiều bài học quý giá. Với khoảng thời dài 175 năm trong lịch sử, mỗi một tập tiểu thuyết là một câu chuyện gắn với những biến cố lịch sử quan trọng của đất nước. Tập Bão táp cung đình nói về một giai đoạn gay gắt, phức tạp khi chuyển từ chính quyền nhà Lý sang nhà Trần, và là thời kì đầu của nhà Trần. Tập Thăng Long nổi giận nói về cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân Nguyên Mông, một trong những trận chiến gian lao, để lại nhiều dấu ấn. Tập Công chúa Huyền Trân cho thấy đường lối kiên trì hòa bình của nhà Trần. Tập Vương triều sụp đổ phản ánh thời gian thịnh trị và đến sụp đổ của vương triều Trần. Bộ tiểu thuyết với bốn tập truyện công phu, chau chuốt đã tái hiện thành công bức tranh lịch sử hoành tráng, đầy hào hùng nhưng cũng đầy bi

tráng của triều Trần. Không chỉ vậy, bằng kiến thức lịch sử vững vàng, óc sáng tạo, liên tưởng phong phú nhà văn đã bù đắp nhiều khoảng trắng của lịch sử , làm thỏa mãn người đọc. Tác phẩm đã làm sáng tỏ nhiều kiến giải thiếu khách quan quanh các nhân vật còn nhiều tranh cãi trong lịch sử như : Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, biểu dương tầm trí tuệ, công lao, sự đóng góp của một số nhân vật lịch sử như : Chu Văn An, Trần Nhân Tông. Đồng thời lên án, phân tích nguyên nhân và hậu quả của những kẻ làm sụp đổ cả vương triều như : Trần Kiện, Trần Ích Tắc, Trần Dụ Tông…Nhà văn không chỉ dụng công nhằm tái hiện lịch sử mà quan trọng hơn là nhằm chuyển tải thông điệp dành cho cuộc sống hiện tại. Nhiều bài học đã được nhà văn chuyển tải như “sự hưng thịnh của mọi thời thì không giống nhau nhưng sự suy vong thì giống nhau, đều bắt đầu từ chỗ không ưa lời nói thẳng, ghét người hiền, khinh dân, nghi ngờ kẻ sĩ, trọng dụng kẻ bất tài vô đạo”[62;tr17]. Có thể nói, với cách viết kiên trì và nghiêm túc, dồn hết tâm huyết của mình nhằm giải mã, đối thoại với lịch sử, nhà văn đã khiến người đọc có cái nhìn khác với tiểu thuyết lịch sử.

Một tiểu thuyết lịch sử khác cũng đã khiến dư luận phải xôn xao là tiểu thuyết Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), một tác giả cùng quê với người anh hùng Nguyễn Huệ. Với độ dài hơn một nghìn trang, tác giả đã khắc họa được một giai đoạn lịch sử biến động của dân tộc. Bắt đầu từ lúc Trịnh Sâm chấp chính đến lúc Tây Sơn ra bắc đánh đổ tập đoàn nhà Trịnh, tiêu diệt hai mươi vạn quân xâm lược Mãn Thanh, Quang Toản thất bại, Gia Long diệt nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước năm 1802. Tác giả đặc biệt quan tâm dành thời gian để nói về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, người anh hùng Nguyễn Huệ, cuộc chiến giữa chúa Nguyễn ở Đàng trong, chúa Trịnh Đàng ngoài và cuộc chiến với nước Đại Thanh thời Càn Long hùng mạnh. Người đọc như bị cuốn vào những trận chiến anh hùng của dân tộc. Việc kết hợp giữa yếu tố lịch sử với huyền thoại, hư cấu, tưởng tượng của tác giả làm cho câu chuyện

hấp dẫn, lấp đầy những khoảng trống lịch sử còn bỏ ngỏ, tăng thêm sức sống cho lịch sử.

Tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) cũng viết về nhân vật Nguyễn Huệ song không chỉ có ngợi ca, sùng kính tuyệt đối như một vị thánh nhân mà còn phản ánh một sự thực nữa về người anh hùng mà sử sách đã bỏ qua. Đó là để nắm được binh quyền, ông cũng không ngần ngại quay súng bắn vua anh Nguyễn Nhạc của mình.

Như vậy nhân vật lịch sử là phương tiện để tác giả bộc lộ thái độ của mình với lịch sử đồng thời giúp người đọc hiểu thêm về lịch sử một cách đầy đủ nhất. Qua nhân vật ta sẽ hiểu được thông điệp mà tác giả muốn bày tỏ, gửi gắm trong tác phẩm của mình.

2.1.2.2 Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử

Nhân vật trong tiểu thuyết được định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học một cách “tương đối” là hạt nhân của tác phẩm văn học, có thể là thuật ngữ dùng để chỉ “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học”hoặc “được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm”.[34;tr235].

Với mỗi tác phẩm tiểu thuyết, nhân vật văn học luôn là trung tâm điểm của mọi sự sáng tạo, nghiên cứu. Chưa dừng lại ở việc xây dựng nhân vật trong đời thường. Đến với đề tài lịch sử, các nhà tiểu thuyết đã thổi hồn, tạo ra một diện mạo mới cho tiểu thuyết. Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử nếu không là con người nguyên mẫu trong lịch sử thì cũng phải là nhân vật hư cấu nhưng đặt trong không gian, thời gian lịch sử.

Nếu như trước đó, tiểu thuyết Việt Nam thường đi theo lối mòn là xây dựng nhân vật từ những mẫu người, những dạng người của hiện thực, cấp cho nhân vật những đặc tính mà khi tiếp xúc người đọc sẽ cảm giác như hình ảnh của chính bản thân họ hay những con người hàng ngày bắt gặp trong các mối quan hệ của cuộc sống.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2023