là phương pháp quan trọng, nhằm nhận được các thông tin xác thực, cần thiết để thành lập ngân hang số liệu làm cơ sở cho các phương pháp khác.
7.2. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Đây là phương pháp đặc thù của địa lý nói chung và địa lý du lịch nói riêng. Phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong quá trình tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối quan hệ về thời gian, không gian, số lượng, chất lượng, quy mô của các đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận văn một cách rõ nét thông qua hệ thống biểu đồ, bản đồ. Nhờ phương pháp này mà tác giả sẽ đối chứng, phân tích, đánh giá, so sánh mức độ thay đổi của các đối tượng địa lý du lịch trong một thời gian, không gian nhất định.
7.3. Phương pháp thống kê, phân tích, só sánh tổng hợp và mô hình hóa
Các tài liệu được khai thác từ các nguồn khác nhau, nhưng độ tin cậy tương đối cao như: tài liệu lưu trữ quốc gia và trung ương, tài tiệu các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch và các tài liệu các ban ngành liên quan khác. Các tài liệu này luôn được bổ sung, cập nhật và được đưa vào các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như của tỉnh. Từ các tài liệu này, trong luận văn được phân tích, đánh giá tổng hợp để đưa ra các lý giải, chứng minh cho các vấn đề có liên quan. Đồng thời từ số liệu đưa ra các dạng mô hình hóa khác nhau để nhìn thấy trực quan hơn trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu địa lý nói chung và du lịch nói riêng. Đây có thể coi là phương pháp dẫn đến sự thành công của luận văn. Kết quả của phương pháp này là cở sở khoa học cho việc xây dựng, thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược, các giải pháp phát triển của du lịch mang tính khoa học, thực tiễn và đạt hiệu quả cao.
7.4. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này chủ yếu lấy ý kiến của các nhà quản lý du lịch. Các đề tài luận văn cấp địa phương, cấp bộ có phân tích xu hướng dự báo phát triển trong tương lai về du lịch.
7.5. Phương pháp cân đối
Có thể bạn quan tâm!
- Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang - 1
- Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang - 2
- Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang - 4
- Cơ Sở Hạ Tầng Và Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật
- Sự Phát Triển Của Nền Sản Xuất Xã Hội Và Các Ngành Kinh Tế
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
Phương pháp này giúp trong quá trình viết luận văn không mất thời gian mà tính khoa học và lôgic cao . Không sử dụng các tư liệu không có liên quan đưa vào luận văn, các số liệu, dữ liệu đảm bảo vừa phải không thừa cũng không thiếu hợp lý trong giới hạn của đề tài nghiên cứu. Qua đây tác giả đã lộc trích qua nhiều lần để tính khuyết phục trong dẫn chứng cao hơn.
7.6. Phương pháp khai thác thông tin địa lý (GIS)
Đây là phương pháp đặc thù của địa lý. Phương pháp này được sử dụng trong việc xây dựng các dữ liệu, quản lý dữ liệu, cập nhật, xử lý các dữ liệu thiết kế các bản đồ, biểu đồ theo những vấn đề muốn đề cặp trong luận văn.
8. Cấu trúc luận văn
Chương 1. Cơ sở lý luận về du lịch
Chương 2. Tiềm năng, thực trạng du lịch tỉnh Tiền Giang
Chương 3. Định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang đến năm 2020
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH
1.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ du lịch ngày nay được sử dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của thuật ngữ này.
Theo một số học giả, du lịch bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “Tonos” nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này latinh hóa thành “Turnur” và sau đó thành “Tour” (tiếng Pháp), nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “Touriste” là người đi dạo chơi. Theo Robert Langquar (năm 1980), từ “Tourism” (du lịch) lần đầu tiêu xuất hiện trong tiếng Anh khoảng năm 1800 và được quốc tế hóa nên nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa. Một số học giả khác lại cho rằng du lịch không phải xuất phát từ tiếng Hi Lạp mà từ tiếng Pháp “le tour”, có nghĩa là một cuộc hành trình đến nơi nào đó và quay trở lại, sau đó từ gốc này ảnh hưởng ra phạm vi toàn thế giới…Như vậy, nhìn chung chưa có sự thống nhất về nguồn gốc thuật ngữ du lịch, song điều cơ bản của thuật ngữ này đều bắt nguồn từ gốc là cuộc hành trình đi một vòng, tự một nơi này đến một nơi khác và có quay trở lại. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch được giải nghĩa theo âm Hán – Việt: du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là sự từng trải.
Cũng tương tự như vậy, có nhiều quan niệm không giống nhau về khái niệm du lịch.
Năm 1811, định nghĩa về du lịch lần đầu tiên xuất hiện tại nước Anh: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Khái niệm này tương đối đơn giản và coi giải trí là động cơ chính của hoạt động du lịch.
Năm 1930, Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm, mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”.
Hai học giả Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung – cầu du lịch, đưa ra ý nghĩa: “Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các
hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc cư trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. So với các quan niệm trên, quan niệm của Hunziker và Krapf đã thể hiện tương đối đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên, quan niệm này chưa làm rõ được đặt trưng của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch (các mối quan hệ nào và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,…). Ngoài ra, định nghĩa bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian, nhiệm vụ tổ chức du lịch và nhiệm vụ sản xuất hang hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Theo I.I Pirojnik (1985) “Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa”.
Tháng 6/1991, tại Otawa (Canada), hội nghị quốc tế về Thống kê Du lịch cũng đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm”.
Hội nghị lần thứ 27 (1993) của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên (usual environment) của con người và ở lại đó để tham quan, nghie ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm”.
Trong Luật Du lịch Việt Nam (ban hành năm 2005), tại điều 4, chương I định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghĩ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
1.1.2. Sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch
Sản phẩm du lịch: là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch.
Theo Michael M. Coltman, sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể như thức ăn, hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí tại nơi nghỉ mát.
Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng du lịch.
1.1.3. Tổ chức lãnh thổ du lịch
Trong việc nghiên cứu địa lý du lịch, tổ chức lãnh thổ du lịch là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu, bởi vì không thể tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động này nếu không xét khía cạnh không gian (lãnh thổ) của nó.
Thực tế, tổ chức lãnh thổ du lịch chính là sự phân hóa không gian của du lịch căn cứ trên các điều kiện tài nguyên du lịch, hiện trạng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động ngành cùng các mối liên hệ với điều kiện phát sinh của ngành với các ngành khác, với các địa phương khác và rộng hơn là mối liên hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Như vậy, nói một cách đơn giản thì tổ chức lãnh thổ du lịch được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ du lịch liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch.(tự nhiên và văn nhân), kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả (kinh tế, xã hội, môi trường) cao nhất.
1.2. VAI TRÒ CỦA DU LỊCH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.2.1. Đối với kinh tế
Con người là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Hoạt động sản xuất là cơ sở tồn tại của xã hội. Việc nghỉ ngơi, du lịch một cách tích cực và được tổ chức hợp lý sẽ đem lại những tốt đẹp. Một mặt, nó góp phần vào việc hồi phục sức khỏe cũng như khả năng lao động và mặt khác đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ. Thông qua hoạt động nghỉ ngơi, du lịch, tỉ lệ ốm đau trong khi làm việc giảm đi, tỉ lệ tử vong ở độ tuổi lao động hạ thấp và rút ngắn thời gian chữa bệnh, giảm số lần khám bệnh tại các bệnh viện. Ở các nước kinh tế phát triển, nguồn lao động gia tăng rất chậm. Vì thế, sức khỏe và khả năng lao động trở thành nhân tố quan trọng để đẩy mạnh sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó.
Ngoài ra, vai trò kinh tế của du lịch còn thể hiện ở chỗ du lịch – ngành “công nghiệp không khói”, ảnh hưởng đến tình hình và cơ cấu của nhiều ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, ngoại thương) và là cơ sở quan trọng cho nền kinh tế phát triển. Việc phát triển du lịch kích thích sự phát triển kinh tế, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều quốc gia.
1.2.2. Đối với xã hội
Du lịch có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng, nhờ chế độ nghỉ ngơi tích cực, bệnh tật của dân cư trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm giảm 30%, bệnh tiêu hóa giảm 20% (Crirosep, Dorin, 1981).
Khi mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau, gần gũi nhau hơn, những đức tính tốt của con người được thể hiện rõ nét. Du lịch là điều kiện để con người xích lại gần nhau, thông qua du lịch mọi người hiểu nhau hơn, tăng thêm tính đoàn kết cộng đồng. Điều này dễ nhận thấy ở lứa tuổi thanh niên, ở những cơ quan có chế độ làm việc ít tập trung hay làm việc căng thẳng theo dây chuyền.
Du lịch góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao long yêu nước, yêu thiên nhiên. Sự phát triển du lịch tác động nhiều đến các mặt văn hóa, xã hội của nơi đến. Ngược lại, du khách cũng bị ảnh hưởng nhất định bởi sự tương phản, khác biệt về văn hóa, đời sống của các nước, các vùng họ đến thăm. Họ có cơ hội để tìm hiểu và học hỏi lối sống và phong tục tập quán của dân tộc khác.
Một trong những đặc điểm của du lịch là khuyến khích khôi phục những nét văn hóa bị mai một, phục hưng và duy trì các loại hình nghệ thuật cổ truyền như âm nhạc truyền thống, các điệu múa nghi lễ,…; làm sống lại các phong tục, tập quán đẹp, bảo tồn các công trình văn hóa và tạo ra thị trường mới cho các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật. Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng nhân dân có điều kiện tiếp xúc với các thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng thêm long yêu nước tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành phẩm chất tốt đẹp như long yêu lao động, tình yêu quê hương đất nước,…Điều đó quyết định sự phát triển về nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội.
Du lịch được xem như nhân tố củng cố hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau hơn.
1.2.3. Đối với môi trường, sinh thái
Du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ và khôi phục môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Việc tắm mình trong thiên nhiên, được cảm nhận trực tiếp sự hùng vĩ, trong lành và nên thơ của các cảnh quan có ý nghĩa quan trọng đối với du khách. Nó tạo cho họ có điều kiện hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, thấy được giá trị của tự nhiên đối với đời sống con người, là bằng chứng thực tiễn phong phú góp phần tích cực vào việc giáo dục môi trường.
Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức tập trung khách vào những vùng nhất định đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt mình, quá trình này kích thích sự tìm kiếm các hình thức bảo
vệ tự nhiên và đảm bảo điều kiện sử dụng chúng một cách hợp lý.
Nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch của đông đảo quần chúng đòi hỏi phải hình thành các kiểu cảnh quan được bảo vệ giống như các công viên quốc gia. Từ đó hang loạt công viên thiên nhiên quốc gia (vườn quốc gia) đã được thành lập vừa để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên có giá trị, vừa tổ chức các hoạt động giải trí du lịch.
Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt, xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động xâm hại của các dòng khách du lịch cũng như việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối quan hệ qua lại với nhau.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.3.1. Khái niệm về tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là một dạng trong toàn bộ tài nguyên được con người sử dụng. Đã có nhiều tác giả đưa ra định nghĩa về tài nguyên du lịch. Theo Huttch và cộng sự (2002): "Tài nguyên du lịch là các thành phần và thể cảnh quan tự nhiên và nhân sinh có thể dùng để tạo ra sản phẩm du lịch, thỏa mãn như cầu về chữa bệnh, thể thao, nghỉ ngơi hay tham quan, du lịch".
Nguyễn Minh Tuệ và nnk cũng cho rằng: "Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cúng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí lực của con người, khả năng và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch".
Theo các nhà khoa học du lịch Trung Quốc định nghĩa là: "Tất cả giới tự nhiên và xã hội loài người có sức hấp dẫn khách du lịch, có thể sử dụng cho ngành du lịch, có thể sản sinh ra hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường đều có thể gọi là tài nguyên du lịch".
Theo khoản 4 (Điều 4, chương 1) Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: "Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, du lịch lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có