người chết để lại kể từ thời điểm mở thừa kế- thời điểm người có tài sản chết. Trong đó, thông thường, những người thừa kế là những người cùng chung sống trong một gia đình hoặc những người bà con thân thích khác của người
để lại di sản. Do vậy, sự điều chỉnh pháp luật đối với loại quan hệ này bên cạnh tiêu chí bảo đảm sự chiếm hữu, sử dụng, định đoạt di sản của những người thừa kế được thuận lợi, cũng luôn cần tính đến yếu tố phù hợp với đạo
đức truyền thống, văn hóa dân tộc, từ đó gìn giữ tình đoàn kết, thương yêu giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn đó, pháp luật các nước đều quan tâm tới vấn đề thừa kế nói chung và các hình thức chia thừa kế nói riêng, sao cho đảm bảo sự dịch chuyển tài sản tương đối đặc biệt này vừa chặt chẽ, thuận lợi, vừa bảo vệ được quyền hợp pháp của những người thừa kế. Theo đó, hai hình thức thừa kế được quy định: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí được thể hiện trong di chúc của người có tài sản. Trong di chúc, người lập di chúc chỉ định một hoặc một số cá nhân, tổ chức là người thừa kế một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình. Tuy nhiên, di chúc đó có được thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc vào việc xác định tính hợp pháp của di chúc, đồng thời phải dựa trên khả năng những người thừa kế theo di chúc còn sống hay đã chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc còn tồn tại hay không còn vào thời điểm mở thừa kế, người được chỉ
định làm người thừa kế theo di chúc có quyền hay không được quyền nhận di sản, đồng ý hay từ chối nhận di sản,...
Pháp luật trước hết tôn trọng sự tự định đoạt của người lập di chúc cũng như sự tự nguyện của những người hưởng thừa kế theo di chúc. Song, trong trường hợp người chết không để lại di chúc, di chúc không định đoạt toàn bộ di sản hoặc bản di chúc vì lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà một phần hoặc toàn bộ nội dung của nó không thể thực hiện được, pháp luật
dự liệu việc chia thừa kế theo pháp luật. Đó là hình thức thừa kế theo điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Trước một vụ việc thừa kế theo pháp luật, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét những ai là đối tượng có thể được hưởng thừa kế, và sắp xếp họ theo các trình tự như thế nào để nhận di sản trên thực tế. Thừa kế theo pháp luật chỉ dành cho các cá nhân thuộc diện thừa kế- phạm vi những người được thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản của người chết để lại. Những người đó có một hoặc một số quan hệ gia đình với người để lại di sản trong ba mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Tuy nhiên, không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản cùng một lúc mà họ được hưởng theo trình tự nhất định.
Dường như chưa có một nguyên tắc chung nhất trong việc quy định các trình tự thừa kế theo pháp luật. Một số quốc gia quy định thứ tự thừa kế dựa trên các bậc quan hệ với người để lại di sản. Theo đó, di sản chủ yếu được phân chia cho những người theo huyết thống xuôi. Con (cháu) trực hệ có quyền nhận di sản của ông bà, cha mẹ theo nguyên tắc con không hưởng thì cháu hưởng. Cháu chỉ được thừa kế của ông bà khi cha (mẹ) chúng đã chết, từ chối hưởng hay không có quyền hưởng di sản. Cứ như vậy đến các bậc, các
đời sau. Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam hiện nay không chia thừa kế dựa trên các bậc thừa kế như vậy mà quy định các hàng thừa kế độc lập, mỗi hàng thừa kế bao gồm một số người, việc hưởng di sản của hàng thừa kế trước sẽ loại trừ quyền hưởng di sản của những người thuộc hàng thừa kế sau. Do vậy, không khi nào có trường hợp những người thừa kế ở các hàng thừa kế khác nhau lại cùng hưởng thừa kế theo pháp luật. Cũng có nước lại quy định thứ tự thừa kế theo cách kết hợp hàng và bậc thừa kế. Với cách này, quyền hưởng thừa kế của những người thừa kế theo hàng sẽ bị ảnh hưởng bởi thứ tự bậc của người đó và có thể có trường hợp những người thừa kế ở các hàng khác nhau lại cùng hưởng di sản theo pháp luật do xem xét tới yếu tố bậc thừa kế.
Có thể bạn quan tâm!
- Hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 1
- Giai Đoạn Từ Ngày 10/9/1990 Đến Trước Ngày 01/7/1996
- Giai Đoạn Từ Ngày 01/07/1996 Đến Trước Ngày 01/01/2006
- Các Hàng Thừa Kế Theo Quy Định Tại Bộ Luật Dân Sự Việt Nam Năm 2005
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Luật thực định các nước có quy định các hàng thừa kế song chưa có quy định thế nào là hàng thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm này cũng ít nhiều
được đề cập tới trong một số tài liệu chuyên khảo.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học - Đại học Luật Hà Nội, "Hàng thừa kế là nhóm người có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản thừa kế" [32, tr. 64]. Khái niệm này đã nêu bật vấn đề cơ bản là hàng thừa kế theo pháp luật luôn luôn bao gồm những người có quan hệ gần gũi với người để lại di sản. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là "nhóm người có quan hệ cùng tính chất gần gũi" không phải là vấn đề đơn giản. Nhiều quan điểm thừa nhận những người cùng một bậc trong quan hệ với người để lại di sản là những người có quan hệ cùng tính chất gần gũi. Nhưng những người thuộc về các bậc khác nhau có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản hay không? Trong cùng một hàng thừa kế cha, mẹ, vợ, chồng và con của người để lại di sản; ông bà nội, ngoại và các anh, chị, em ruột của người để lại di sản; các cụ và bác, chú, cậu, cô, dì, ruột có phải là những người có quan hệ cùng tính chất gần gũi?... Họ là những người có quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống với nhau, những người trong dòng tộc lại thuộc các bậc khác nhau, có khi là quan hệ huyết thống trực hệ, có khi là quan hệ huyết thống bàng hệ,... Trong nhiều trường hợp như vậy, quả không dễ dàng có được một quan điểm đồng nhất.
Theo cuốn Từ điển Luật học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, "Trong trường hợp không có di chúc thì hàng thừa kế là thứ tự ưu tiên hưởng di sản theo quy định của pháp luật" [35, tr. 182-183]. Định nghĩa đã hàm chứa trong nó yêu cầu phân chia những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau với mức ưu tiên hưởng di sản khác nhau. Nhưng, chúng ta thấy quan điểm này lại "mắc" phải một vấn đề khác: Đâu chỉ có trường hợp không có di chúc thì vấn đề thừa kế theo pháp luật mới được đặt ra. Nhiều trường hợp, mặc dù người thừa kế có để lại di chúc nhưng di chúc đó không được thực hiện hoặc không thực hiện được thì việc phân chia di sản thừa kế cũng
phải được tiến hành theo hình thức thừa kế theo pháp luật. Như vậy, khái niệm này đã không bao quát hết các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Tác giả Phan Thị Kim Chi trong một công trình nghiên cứu về thừa kế lại đưa ra khái niệm:
Hàng thừa kế là thứ tự những người thuộc diện thừa kế được hưởng di sản theo trình tự tuyệt đối trên nguyên tắc hàng gần loại trừ hàng xa, tùy thuộc vào mức độ thân thích với người để lại di sản, không phân biệt giới tính, độ tuổi, địa vị xã hội, không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự và những người trong cùng một hàng thừa kế được hưởng phần di sản ngang nhau [22, tr. 11].
Có thể nói, đây là kết quả của một nghiên cứu khá sâu sắc, khái niệm không chỉ đưa ra thuộc tính của những người thừa kế mà còn nêu được nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo hàng. Điều này hoàn toàn phù hợp trong pháp luật Việt Nam hiện nay, nhưng nếu xét tới một vài quy định của pháp luật Việt Nam dưới chế độ cũ và pháp luật của một số nước trên thế giới, quyền hưởng di sản đôi khi phụ thuộc vào giới tính, thân thế và trình tự hưởng di sản tuyệt đối trên nguyên tắc hàng gần loại trừ hàng xa có lẽ không được
đảm bảo. Các nước khác nhau, thậm chí trong cùng một quốc gia nhưng vào những thời điểm cụ thể lại quy định số lượng hàng thừa kế khác nhau. Từng hàng thừa kế đôi khi bao gồm nhiều đối tượng, có những người có quan hệ thân thích tương đồng với người để lại di sản thừa kế, có khi không tương
đồng. Nguyên tắc phân chia di sản trong cùng một hàng và giữa các hàng cũng có nhiều khác biệt.
Bởi thế, hàng thừa kế là một khái niệm động và mang tính lịch sử, khó có thể đưa ra một định nghĩa luôn đúng trong mọi hoàn cảnh. Theo quan điểm cá nhân, xét trên bình diện chung nhất, tôi cho rằng hàng thừa kế là nhóm người có quan hệ thân thích với người để lại di sản, được quy định thứ tự ưu tiên hưởng di sản trong trường hợp chia thừa kế theo pháp luật, dựa trên những nguyên tắc nhất định trong pháp luật của mỗi nước ở từng giai đoạn lịch sử.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn này, với tiêu chí tìm hiểu về pháp luật Việt Nam hiện hành về hàng thừa kế, chúng tôi xin đưa ra khái niệm sau
đây: Hàng thừa kế là một nhóm người thừa kế theo pháp luật có quyền ngang nhau trong việc nhận di sản. Các hàng thừa kế được sắp xếp theo một trật tự tuyệt đối trên nguyên tắc những người ở hàng thừa kế trước có mối quan hệ thân thích gần gũi hơn với người để lại di sản so với những người ở hàng thừa kế sau. Việc hưởng di sản của hàng thừa kế trước loại trừ quyền hưởng di sản của hàng thừa kế sau.
Để nhìn nhận đa chiều về vấn đề hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành, trong phần nội dung tiếp theo, chúng tôi xin trình bày về tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hàng thừa kế và vấn đề hàng thừa kế trong pháp luật một số nước trên thế giới.
1.2. Sơ lược tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hàng thừa kế
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Dưới chế độ phong kiến, pháp luật chưa dành nhiều sự quan tâm điều chỉnh quan hệ thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo pháp luật. Thừa kế mặc dù đã bắt đầu được đề cập trong pháp luật của triều đại nhà Lý; tuy nhiên, khi đó chưa có bất kỳ quy định nào về hàng thừa kế. Phải tới thế kỷ XV, dưới triều
đại nhà Lê, vấn đề hàng thừa kế mới được đặt ra. Bộ luật Hồng Đức quy định khi cha mẹ chết không có chúc thư hoặc chúc thư không hợp pháp thì di sản
được chia theo luật. Mặc dù chưa thật rõ ràng, nhưng theo tinh thần các điều 374, 375, 376, 380, 388 và một số điều khoản khác, có thể thấy pháp luật quy
định hai hàng thừa kế:
- Hàng thừa kế thứ nhất là các con (bao gồm cả con trai, con gái, con vợ cả, con vợ lẽ, con nàng hầu; con nuôi cũng được thừa kế nếu trong văn tự nhận nuôi có ghi rõ cho thừa kế điền sản).
- Hàng thừa kế thứ hai là cha mẹ hoặc người thừa tự.
Như vậy, người vợ hoặc người chồng góa không thuộc bất kỳ hàng thừa kế nào ở trên song nếu người chồng hoặc người vợ chết đi, người kia có quyền thừa hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản cùng với người thừa tự hoặc cha mẹ của người chết.
Theo quy định tại Bộ luật, quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất chỉ phát sinh khi cả cha và mẹ đều đã chết. Trong hàng này, phần di sản nhận
được của các con vợ cả là như nhau, phần của các con vợ lẽ cũng bằng nhau nhưng kém phần của các con vợ cả; con nuôi được thừa kế bằng nửa phần của con đẻ, nếu không có con đẻ mà con nuôi ở cùng với cha mẹ nuôi từ bé thì
được hưởng cả, không ở cùng từ bé thì được hưởng gấp hai lần người thừa tự của cha mẹ nuôi. Bên cạnh đó, bộ luật cũng quy định cho người con nuôi vẫn
được hưởng thừa kế bằng nửa phần người ăn thừa tự của người tuyệt tự trong họ cha mẹ đẻ.
Quan hệ thừa kế trong hàng thừa kế thứ hai chỉ phát sinh khi hôn nhân không có con mà một người chết. Phần mà vợ, chồng, cha, mẹ hoặc người thừa tự nhận được (nếu cha, mẹ chết) không bằng nhau và tùy thuộc vào một trong ba trường hợp cụ thể mà nhà làm luật đã dự liệu: Vợ chồng không có con mà một người chết trước; vợ chồng có con, một người chết trước, con lại chết; vợ chồng có con, một người chết trước, người kia đi lấy kẻ khác.
Như vậy, pháp luật quy định hai hàng thừa kế nhưng không công nhận sự bình đẳng hưởng quyền thừa kế của những người trong cùng một hàng thừa kế. Mặc dù vậy, việc cho người phụ nữ (mẹ, con gái) có quyền thừa kế và con gái được ngang hàng với con trai trong việc hưởng di sản thừa kế theo pháp luật đã thể hiện quan điểm tiến bộ của triều đại nhà Lê, thoát khỏi tư tưởng gia trưởng thông thường thời đó. Điều này không thể tìm thấy trong các bộ luật phong kiến khác. Trong Bộ luật Hồng Đức, chế định thừa kế nói chung, quy
định về hàng thừa kế nói riêng vừa nhằm củng cố sự trường tồn của dòng họ vừa nhằm giữ gìn sự hòa thuận, thương yêu nhau giữa các anh, chị, em trong
gia đình. Với lý do đó, thừa kế dường như đã trở thành một chế định nổi bật nhất, thể hiện những nét ưu việt của pháp luật triều Lê.
Vào thế kỷ XVIII, dưới thời nhà Nguyễn, pháp luật đã không kế thừa
được những tiến bộ kể trên của triều Lê. Bộ luật Gia Long quy định hai hàng thừa kế: hàng thừa kế thứ nhất là các con (không phân biệt con vợ cả, con vợ lẽ, con nô tỳ; con nuôi hoặc con rể được cha mẹ yêu dấu có thể được châm chước cho tài sản mà con thừa tự không được phép can thiệp); nếu không có con thì hàng thừa kế thứ hai là các thân thuộc trong gia tộc. Tuy nhiên, quyền thừa kế theo pháp luật chủ yếu thuộc về con trai, con gái chỉ có quyền khi trong gia đình không có con trai. Người vợ không có quyền thừa kế đối với di sản của chồng. Pháp luật thừa kế nhà Nguyễn vì thế có thể nói mang đậm nét bản chất của pháp luật phong kiến là bảo vệ quyền lực người gia trưởng, củng cố chế độ gia đình phụ quyền.
Dưới thời Pháp thuộc, Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định nếu người để lại di sản mà không có chúc thư thì tài sản được chia theo quy định của pháp luật theo thứ tự sau đây:
- Con trai, con gái của người để lại di sản được chia đều nhau. Nếu người được thừa kế chết thì con cháu đang sống của họ được thay mặt nhận phần di sản ấy mà chia nhau;
- Nếu người để lại di sản không có con thì di sản được để lại cho bố mẹ, nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ hoặc người chồng đang sống;
- Nếu không còn con cháu, cha mẹ thì di sản thuộc về người chính hệ tôn thuộc gần nhất (ông bà bên nội), nhưng vẫn phải giữ quyền lợi cho người vợ hoặc người chồng;
- Nếu không còn người chính hệ tôn thuộc gần nhất thì di sản được truyền cho anh chị em ruột và được chia đều nhau, anh chị em nào chết thì con cháu của họ được nhận thay;
- Nếu anh chị em ruột và con cháu của những người này cũng không còn ai, thì di sản được truyền lại cho người còn lại bên họ nội;
- Nếu thân tộc bên nội không còn ai, di sản truyền cho bên ngoại;
- Nếu thân tộc ngoại không còn ai, thì người vợ chính được hưởng toàn bộ di sản người chồng để lại;
- Nếu không còn vợ góa thì di sản sung công vào nhà nước.
Pháp luật thời kỳ này dành quyền hưởng thừa kế chủ yếu cho những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản. Vị trí của người vợ góa- người có quan hệ hôn nhân với người để lại di sản- dường như quá khiêm tốn trong các thứ tự hưởng di sản của người chồng quá cố để lại. Vợ chỉ được hưởng một phần di sản khi chồng chết mà vợ chồng không có con và trong trường hợp cha mẹ hoặc ông bà bên nội của chồng được hưởng di sản. Trong tất cả các thứ tự hưởng di sản, chỉ có người vợ chính có thể được xếp vào diện thừa kế mà cũng chỉ thuộc về hàng thừa kế cuối cùng, được hưởng phần di sản của chồng khi không còn ai thân thích trong dòng tộc nội và ngoại của người chồng đã mất. Dòng tộc bên nội cũng được ưu tiên trước dòng tộc bên ngoại trong thứ tự hưởng di sản của người quá cố. Như vậy, pháp luật Việt Nam thời kỳ thực dân cũng chưa thoát ra được những ảnh hưởng nặng nề của quan niệm về gia đình phong kiến.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận thành công của Dân luật Bắc kỳ khi Bộ luật này đã dành quyền hưởng thừa kế cho con gái được bình đẳng với con trai của người để lại di sản thừa kế. Bên cạnh đó, vấn đề thừa kế thế vị đã được đề cập. Lần đầu tiên theo pháp luật Việt Nam, nếu người được thừa kế chết thì con cháu đang sống của họ được thay mặt nhận phần di sản ấy mà chia nhau.
Có thể thấy, trong một số quy định về hàng thừa kế, quyền thừa kế của người có quan hệ hôn nhân với người để lại di sản đã được xác định; vị trí của người vợ trong gia đình dù khiêm tốn song cũng đã được công nhận; con gái
được xếp ngang hàng với con trai trong các mối quan hệ thừa kế,... nhưng nhìn