xin cấp giấy chứng nhận đầu tư và triển khai thực hiện dự án, đẩy nhanh tiến độ quyết định chủ trương đầu tư các dự án. Theo Luật đầu tư, thời gian giải quyết thủ tục hành chính là 35 ngày, song cơ bản đã tạo điều kiện giải quyết cho các nhà đầu tư trong thời gian chậm nhất là 20 ngày.
- Về công tác tổ chức rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các dự án xây dựng: công tác tổ chức rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các dự án xây dựng, cải tạo, nâng cấp đường giao thông liên quan đến du lịch (đường đến các khu, điểm du lịch, đường quanh hồ, đường đi bộ) đã được UBND tỉnh nghiêm túc thực hiện. Trong giai đoạn 2017-2019, tỉnh Lào Cai đã thực hiện các dự án cải tạo, nâng cấp đường du lịch tại Sa Pa, Bắc Hà, gồm: 03 dự án tại Bắc Hà (Hoàng Thu Phố - Nhiều San – Tả Van Chư; Lầu Thí Ngài – Bản Phố và Thải Giàng Phố - Nậm Thố - San Sả Hồ). Tiếp tục triển khai dự án đường từ thị trấn Sa Pa đến làng Cát Cát và từ thôn San II Lao Chải - Tả Van. Triển khai dự án QL4D đoạn qua thị trấn Sa Pa (Km 100 – Km 111); đường nối đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến thị trấn Sa Pa. Triển khai dự án cải tạo, nâng cấp tuyến đường Sa Pả - Tả Phìn - Bản Khoang, huyện Sa Pa; xây dựng Trung tâm giao lưu văn hóa và thông tin du lịch Lào Cai. Hoàn thành tu bổ, sửa chữa di tích lịch sử Đền Trung Đô, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà.
- Về phát triển các cơ sở lưu trú
Bảng số liệu 3.3 cho thấy, số cơ sở lưu trú có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2017, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 912 cơ sở lưu trú với 11.784 phòng. Năm 2018, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 1.205 cơ sở lưu trú với 12.911 phòng. Số cơ sở lưu trú năm 2018 tăng 293 cơ sở ứng với tăng 32,1% so với năm 2017. Số phòng năm 2018 tăng 1.127 phòng ứng với tăng 9,6% so với năm 2017. Đến năm 2019, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 1.330 cơ sở lưu trú với 15.326 phòng. Số cơ sở lưu trú năm 2019 tăng 125 cơ sở ứng với tăng 10,4% so với năm 2018. Số phòng năm 2019 tăng 2.415 phòng ứng với tăng 18,7% so với năm 2018.
Bảng 3.3: Tình hình cơ sở lưu trú du lịch tỉnh Lào Cai giai đoạn 2017-2019
Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | ||||
Số cơ sở | Số phòng | Số cơ sở | Số phòng | Số cơ sở | Số phòng | |
Tổng số cơ sở lưu trú | 912 | 11.784 | 1.205 | 12.911 | 1.330 | 15.326 |
- Khách sạn | 191 | 5.184 | 210 | 5.610 | 208 | 6.479 |
+ Khách sạn 5 sao | 1 | 428 | 2 | 543 | 3 | 811 |
+ Khách sạn 4 sao | 6 | 680 | 6 | 680 | 7 | 802 |
+ Khách sạn 3 sao | 9 | 526 | 9 | 576 | 14 | 1178 |
+ Khách sạn 2 sao | 50 | 1.600 | 59 | 1.701 | 54 | 1.634 |
+ Khách sạn 1 sao | 125 | 1.950 | 134 | 2.110 | 130 | 2.054 |
- Nhà nghỉ | 532 | 5.000 | 788 | 5.573 | 760 | 5.378 |
- Home stay | 189 | 1.600 | 207 | 1.728 | 362 | 3.469 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Tổng Hợp, Xử Lý Số Liệu
- Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai
- Quảng Bá, Xúc Tiến, Liên Kết, Hợp Tác Phát Triển Du Lịch
- Nguồn Lực Hướng Dẫn Viên Du Lịch Tỉnh Lào Cai Giai Đoạn 2017-2019
- Kết Quả Đánh Giá Của Đối Tượng 02 Về Hoạt Động Phát Triển Du Lịch Trên Địa Bàn Tỉnh Lào Cai
- Định Hướng, Mục Tiêu Phát Triển Du Lịch Tỉnh Lào Cai Đến Năm 2025
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai)
Các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Lào Cai bao gồm: khách sạn, nhà nghỉ và home stay. Đối với cơ sở lưu trú là khách sạn, chủ yếu là khách sạn 01 sao và khách sạn 02 sao, khách sạn từ 3 sao trở lên chiếm tỷ trọng thấp. Những khách sạn từ 3 sao trở lên đã có xu hướng tăng lên qua các năm, tuy nhiên mức tăng là không nhiều, đặc biệt đối với khách sạn 4 sao và 5 sao. Năm 2017, trên địa bàn tỉnh có duy nhất 01 khách sạn 5 sao và 06 khách sạn 4 sao. Năm 2018, trên địa bàn tỉnh có 02 khách sạn 5 sao và 06 khách sạn 4 sao. Như vậy, khách sạn 4 sao giữ nguyên và khách sạn 5 sao có tăng 01 khách sạn so với năm 2017. Năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 03 khách sạn 5 sao và 07 khách sạn 4 sao. Như vậy, khách sạn 5 sao tăng 01 và khách sạn 5 sao tăng 01 khách sạn so với năm 2018.
Đối với cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, đây là cơ sở lưu trú chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Năm 2017, trong tổng số 912 cơ sở lưu trú thì có 532 cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, chiếm tỷ trọng 58,3%. Năm 2018, trong tổng số 1.205 cơ sở lưu trú thì có 788 cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, chiếm tỷ trọng 65,4%. Năm 2019, trong tổng số
1.330 cơ sở lưu trú thì có 760 cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, chiếm tỷ trọng 57,1%. Đối với cơ sở lưu trú là nhà nghỉ, mặc dù số cơ sở lưu trú nhiều nhưng quy mô phòng nhỏ, trung bình chưa đến 8 phòng/nhà nghỉ.
Đối với cơ sở lưu trú là home stay, loại hình cơ sở lưu trú này đang có xu hướng tăng lên qua các năm để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Năm 2017, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 189 home stay với 1.600 phòng. Năm 2018, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 207 home stay với 1.728 phòng. Số cơ sở lưu trú là home stay năm 2018 tăng 18 cơ sở ứng với tăng 9,5% so với năm 2017. Số phòng tăng 128 phòng ứng với tăng 8% so với năm 2017. Năm 2019, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 362 home stay với 3.469 phòng. Số cơ sở lưu trú là home stay năm 2019 tăng 155 cơ sở ứng với tăng 74,9% so với năm 2018. Số phòng tăng 1.741 phòng ứng với tăng 100,8% so với năm 2018. Như vậy, riêng trong năm 2019, số cơ sở lưu trú là home stay đã tăng 74,9% về số cơ sở và 100,8% về số phòng. Điều này cho thấy, khách du lịch đang ưa chuộng cơ sở lưu trú là home stay.
Số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh Lào Cai tập trung chủ yếu ở thị trấn Sa Pa, thành phố Lào Cai và huyện Bắc Hà. Mặc dù số lượng và chất lượng của các cơ sở lưu trú đã tăng lên qua các năm, tuy nhiên lượng khách du lịch đến với Lào Cai, đặc biệt là khu du lịch Sa Pa tăng đột biến vào các ngày lễ, ngày cuối tuần nên nhiều khi không thể đáp ứng được hết nhu cầu của khách du lịch. Bên cạnh đó, trang thiết bị ở nhiều cơ sở lưu trú là nhà nghỉ không đồng bộ, đã cũ và đang xuống cấp. Một số phòng nghỉ ở các khách sạn, nhà nghỉ tư nhân còn hẹp, bài trí thiết kế nội ngoại thất không hợp lý, vệ sinh chưa đảm bảo theo yêu cầu. Ngoài dịch vụ lưu trú và ăn uống, ở một số khách sạn hiện nay phát triển thêm các dịch vụ mới như massage, karaoke, bể bơi. Bên cạnh đó, phần
lớn các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh quy mô còn nhỏ (dưới 10 phòng) thuộc các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn nhân lực hầu hết chưa qua đào tạo nên trình độ quản trị du lịch, khách sạn còn yếu. Do vậy, việc tổ chức kinh doanh du lịch nói chung còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, quảng bá, xúc tiến, xây dựng thị trường và phát triển sản phẩm du lịch.
- Về các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
Bảng 3.4: Tình hình doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tại tỉnh Lào Cai giai đoạn 2017-2019
Năm 2017 | Năm 2018 | Năm 2019 | 2018/2017 | 2019/2018 | |||
± | % | ± | % | ||||
DN kinh doanh lữ hành | 39 | 30 | 34 | -9 | -23,1 | 4 | 13,3 |
- DN lữ hành quốc tế | 25 | 25 | 32 | 0 | 0,0 | 7 | 28,0 |
- DN lữ hành nội địa | 14 | 5 | 2 | -9 | -64,3 | -3 | -60,0 |
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai)
Bảng số liệu 3.4 cho thấy, số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trên địa bàn tỉnh Lào Cai đang có sự tăng giảm thất thường trong giai đoạn 2017-2019. Năm 2017, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 39 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó: số doanh nghiệp lữ hành quốc tế là 25 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 64,1%; số doanh nghiệp lữ hành nội địa là 14 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 35,9%. Năm 2018, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 30 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó: số doanh nghiệp lữ hành quốc tế là 25 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 83,3%; số doanh nghiệp lữ hành nội địa là 5 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 16,7%. Số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành năm 2018 giảm 09 doanh nghiệp ứng với giảm 23,1% so với năm 2017. Trong số 09 doanh nghiệp giảm này thì 100% là doanh nghiệp lữ hành nội địa. Năm 2019, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 34 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó: số doanh nghiệp lữ hành quốc tế là 32
doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 94,1%; số doanh nghiệp lữ hành nội địa là 02 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 5,9%. Số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành năm 2019 tăng 04 doanh nghiệp ứng với tăng 13,3% so với năm 2018. Trong đó, số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tăng 07 doanh nghiệp, ứng với tăng 28%. Số doanh nghiệp lữ hành nội địa giảm 03 doanh nghiệp, ứng với giảm 60%. Qua phân tích cho thấy, hiệu quả kinh doanh cũng như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành nội địa là rất thấp. Số lượng doanh nghiệp lữ hành nội địa liên tục giảm qua các năm trong giai đoạn 2017-2019, thậm chí đến năm 2019, số doanh nghiệp lữ hành nội địa chỉ còn có 02 doanh nghiệp.
3.2.5. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch
a) Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch
Trong giai đoạn 2017-2019, tỉnh Lào Cai thường xuyên chỉ đạo các sở, ngành: Lao động - Thương binh và Xã hội; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công thương; Giáo dục đào tạo; UBND các huyện, thành phố phối hợp chặt chẽ với các cơ sở dạy nghề, làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp có dự án đầu tư về du lịch trên địa bàn tỉnh trong khảo sát nhu cầu sử dụng lao động để đào tạo, cung ứng nguồn lao động tại địa phương, cụ thể là:
- Tổ chức 04 khóa bồi dưỡng kiến thức quản lý cơ sở lưu trú và kỹ năng báo cáo thống kê qua phần mềm cho 400 học viên làm việc tại các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch tại huyện Sa Pa và Thành phố Lào Cai; 04 lớp bồi dưỡng kỹ năng phát triển du lịch cộng đồng; chế biến món ăn và công tác đảm bảo an ninh an toàn cho khách du lịch cho các hộ kinh doanh Homestay tại các xã phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện Sa Pa.
- Phối hợp với Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Phân hiệu Đại học Thái Nguyên, Cao đẳng Lào Cai tổ chức 01 lớp đào tạo nghiệp vụ du lịch và 04 lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho 365 lượt hướng dẫn viên du lịch trên địa bàn tỉnh; Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức các hoạt động du lịch cộng đồng cho các điểm đến; nghiệp vụ điều hành tour; nghiệp vụ buồng khách sạn; nghiệp vụ
lễ tân khách sạn; bồi dưỡng kỹ năng phục vụ nhà hàng; nghiệp vụ du lịch cho lái xe du lịch, tổng số học viên tham gia là 950 người.
- Phối hợp với EU, tổ chức thành công 03 chương trình tập huấn và đào tạo cho 114 học viên, cụ thể: Hội thảo, tập huấn hợp tác giữa cơ sở Đào tạo và Doanh nghiệp trong Đào tạo Nghề Du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai với sự tham gia của 40 học viên; Tập huấn kỹ năng xây dựng chính sách và quy hoạch du lịch có trách nhiệm cho 50 học viên là cán bộ quản lý đến từ các các, phòng văn hóa các huyện thành phố có du lịch cộng đồng; Tập huấn kỹ năng về Quản lý Khách sạn theo bộ tiêu chuẩn VTOS cho 24 học viên đến từ các khách sạn từ 2 sao trở lên.
- Phối hợp với Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch tổ chức 02 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về du lịch, 01 khóa tập huấn nâng cao kỹ năng quản lý Khách sạn từ 4-5 sao, bồi dưỡng nghiệp vụ lễ tân, buồng, bàn trong khách sạn, bảo vệ môi trường du lịch cho các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn toàn tỉnh.
- Tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng công tác lễ tân, hậu cần cho đối tượng là cán bộ các sở, ban, ngành, sinh viên thu hút 410 cán bộ tham gia phục vụ Năm du lịch quốc gia 2017.
- Trung tâm Thông tin và Xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai đã mở 02 lớp dạy tiếng Pháp nghiệp vụ khách sạn, nhà hàng và hướng dẫn viên cho 31 học viên, do giảng viên người bản xứ dạy và cấp chứng chỉ tại Sa Pa.
- Phối hợp với Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam trao đổi hợp tác về đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Phối hợp với Tổng cục du lịch tổ chức khóa tập huấn bồi dưỡng kiến thức quản lý du lịch thu hút được 60 học viên tham gia. Tiếp tục phối hợp với Tổng cục du lịch thông báo tổ chức lớp tập huấn và phát động học sinh, sinh viên làm tình nguyện viên hỗ trợ khách du lịch.
- Tổ chức mở các lớp đào tạo, tập huấn theo Đề án số 3 gồm: 02 lớp tập huấn Hướng dẫn viên tại điểm, tại thị trấn Sa Pa, Lào Cai, thu hút 200 học viên
tham gia; 01 lớp Bồi dưỡng cập nhật kiến thức định kỳ cho hướng dẫn viên du lịch nội địa và quốc tế thu hút 79 học viên; 01 lớp đào tạo Nghiệp vụ du lịch cho người quản lý cơ sở lưu trú và trưởng các bộ phận trong cơ sở lưu trú; 01 lớp bồi dưỡng cho các hộ Kinh doanh Homestay tại xã Tả Van, tại huyện Sa Pa, thu hút được 80 học viên tham gia.
b) Nguồn nhân lực phục vụ du lịch của tỉnh Lào Cai
Tính đến 31/12/2019, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch của tỉnh Lào Cai phân theo giới tính, theo trình độ đào tạo và theo lĩnh vực được thể hiện ở bảng số liệu 3.5.
- Theo giới tính: gồm lao động nam và lao động nữ. Trong 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh thì 6.285 lao động là nam giới, chiếm tỷ trọng 37,3%; có 10.566 lao động là nữ giới, chiếm tỷ lệ 62,7%. Đối với đặc thù của ngành du lịch thì tỷ lệ nữ giới làm việc trong ngành du lịch cao hơn nam giới cũng là điều dễ hiểu.
- Theo trình độ đào tạo: trong 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh thì có 5.592 lao động đã qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 33,2%; có 11.259 lao động chưa qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 66,8%. Trong số lao động đã qua đào tạo thì có 1.902 lao động đã qua đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học và sau đại học, chiếm tỷ lệ 34%; có 2.685 lao động đã qua đào tạo ở bậc trung cấp, chiếm tỷ lệ 48%; có 1.005 lao động đã qua đào tạo ở bậc khác, chiếm tỷ lệ 18%. Nhìn chung, lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Lào Cai chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao, chiếm khoảng 2/3 tổng số lao động phục vụ cho hoạt động du lịch.
Bảng 3.5: Nguồn nhân lực ngành du lịch tỉnh Lào Cai thời điểm 31/12/2019
Số lượng (người) | Tỷ trọng (%) |
16.851 | 100 | |
- Nam | 6.285 | 37,3 |
- Nữ | 10.566 | 62,7 |
2. Lao động phân theo trình độ đào tạo | 16.851 | 100 |
- Đã qua đào tạo | 5.592 | 33,2 |
+ Cao đẳng, đại học, sau đại học | 1.902 | 34,0 |
+ Trung cấp | 2.685 | 48,0 |
+ Đào tạo khác | 1.005 | 18,0 |
- Chưa qua đào tạo | 11.259 | 66,8 |
3. Lao động phân theo lĩnh vực | 16.851 | 100 |
- Cơ sở lưu trú | 8.521 | 50,6 |
- Cơ sở phục vụ ăn uống | 3.125 | 18,5 |
- Lữ hành, hướng dẫn | 1.634 | 9,7 |
- Vận chuyển khách du lịch | 895 | 5,3 |
- Khu, điểm du lịch | 625 | 3,7 |
- Lĩnh vực khác | 2.051 | 12,2 |
(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai)
- Theo lĩnh vực: chiếm tỷ trọng cao nhất là lao động làm việc trong các cơ sở lưu trú. Trong 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh thì có 8.521 lao động làm việc trong các cơ sở lưu trú, chiếm tỷ lệ 50,6%. Đứng thứ hai là lao động làm việc trong các cơ sở phục vụ ăn uống. Trong 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh thì có
3.125 lao động làm việc trong các cơ sở lưu trú, chiếm tỷ lệ 18,5%. Đứng thứ hai là lao động làm việc trong lĩnh vực lữ hành, hướng dẫn. Trong 16.851 lao động phục vụ cho hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh thì có 1.634 lao động làm việc trong lĩnh vực lữ hành, hướng dẫn, chiếm tỷ lệ 9,7%. Chiếm tỷ lệ thấp hơn là lao động làm việc trong lĩnh vực vận chuyển khách du lịch và làm việc tại các khu, điểm du lịch với tỷ trọng lần lượt chiếm 5,3% và 3,7%. Lao động làm