Những Bất Cập Về Mặt Pháp Lý Liên Quan Tới Nqtm :

tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền”, thì theo Mục 6, Điều 3, Nghị định 35/2006/NĐ-CP, “quyền thương mại” còn bao gồm thêm một hoặc toàn bộ các quyền sau: “quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung”; “quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung”; “quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại”. Định nghĩa này của Nghị định đầy đủ hơn, bao quát được tất cả các hình thức nhượng quyền thương mại.

Nghị định số 35/2006/NĐ-CP còn bổ sung điều kiện đối với bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong Điều 5 và Điều 6. Theo đó, đối với bên nhượng quyền, hệ thống kinh doanh phải đã hoạt động ít nhất 01 năm, hàng hóa kinh doanh phải hợp pháp và có văn bản chấp thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đối với bên nhận quyền, phải có đăng ký ngành nghề kinh doanh phù hợp với đối tượng của quyền thương mại. Đồng thời, Nghị định cũng bổ sung trách nhiệm cung cấp thông tin của bên nhượng quyền mà Luật Thương mại năm 2005 chưa đề cập đến. Điều 8 của Nghị định quy định: “bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền thương mại và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của mình cho bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại nếu các bên không có thỏa thuận khác”.

Điều 11 của Nghị định cũng đưa ra một số nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại mà các bên có thể áp dụng, gồm các điều khoản chủ yếu như sau: “1- Nội dung của quyền thương mại. 2-Quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền. 3- Quyền, nghĩa vụ của bên nhận quyền. 4- Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán. 5- Thời hạn hiệu lực của hợp đồng. 6- Gia hạn, chấm dứt và giải quyết tranh chấp”.

Việc đăng ký nhượng quyền thương mại được quy định tại Mục 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP. Cơ quan tiếp nhận đăng ký nhượng quyền thương mại là Bộ thương mại (nay là Bộ Công thương) đối với hoạt động nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài và là Sở Thương mại đối với hoạt động nhượng quyền thương

mịa mang tính nội địa. Hồ sơ đăng ký bao gồm: đơn đăng ký và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại theo mẫu của Bộ Thương mại; bản sao có chứng thực giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư, văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Trong vòng 05 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, cơ quan tiếp nhận sẽ chập thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại cho thương nhân.

Ngày 25/05/2006, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 09/2006/TT- BTM hướng dẫn cụ thể hơn việc đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Thông tư đã quy định chi tiết về mẫu đơn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại.

Ngoài các quy định Pháp luật hiện hành của Bộ Thương mại, hiện nay hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam còn chịu sự điều tiết của Bộ Khoa học và Công nghệ. Điều 10, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, đã khẳng định “Phần chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp trong hợp đồng nhượng quyền thương mại đang chịu sự điều chỉnh của Luật chuyển giao công nghệ 2006 và Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 của Nghị định 11/2005/NĐ-CP, việc chuyển giao này có tên gọi là “cấp phép đặc quyền kinh doanh” và Nghị định cũng quy định hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ và được xác nhận đăng ký bởi Bộ/Sở Khoa học và Công nghệ.

2.1.2. Những bất cập về mặt pháp lý liên quan tới NQTM :

Hoạt động nhượng quyền thương mại mới được luật hóa ở Việt Nam trong vòng 3 năm trở lại đây nên không thể tránh khỏi còn một số thiếu sót và bất cập.

Thứ nhất, có sự chồng chéo về thẩm quyền giữa Bộ Công thương và Bộ Khoa học và Công nghệ. Nói cách khác, hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đang phải chịu cơ chế “một cổ hai tròng”, cùng một lúc có hai cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng điều tiết hoạt động này. Khi thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại có liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp, thương nhân cùng một lúc phải đăng ký với hai cơ quan Nhà nước khác nhau là Bộ Công thương và Bộ Khoa học và Công nghệ, phải ký kết cùng lúc hai loại hợp đồng

là hợp đồng nhượng quyền thương mại và hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh. Điều này gây nhiều phiền toái và khó khăn cho doanh nghiệp.

Thứ hai, các quy định pháp luật liên quan đến thủ tục đăng ký nhượng quyền kinh doanh còn nhiều thiếu sót và chưa rõ ràng. Điều 18, Nghị định 35/2006/NĐ-CP khi quy định việc phân cấp thực hiện đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại không nêu rõ trường hợp nhượng quyền từ khu chế xuất, khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của Pháp luật Việt Nam ra nước ngoài và ngược lại thì đăng ký tại cơ quan nào. Ngoài ra, cũng chưa có các quy định cụ thể nào về cơ chế khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong trường hợp thương nhân bị từ chối đăng ký nhượng quyền thương mại.

Thứ ba, các cơ chế pháp lý về nhượng quyền thương mại chưa hoàn chỉnh và đầy đủ. Pháp luật về thuế chưa có các quy định cụ thể về hạch toán, tính thuế đối với mức phí nhượng quyền và các khoản thu khác liên quan đến nhượng quyền. Chính phủ cũng chưa ban hành các quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hoạt động nhượng quyền thương mại.

Hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bán lẻ ở Việt Nam bên cạnh chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật trên còn chịu sự điều chỉnh của các cam kết với WTO trong lĩnh vực phân phối. Nội dung các cam kết này đã được trình bày ở mục 1.3.2. của kháo luận. Để triển khai việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 10/2007/QĐ- BTM ngày 21/05/2007 công bố lịch trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến việc mua bán hàng hóa theo cam kết trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên. Như vậy, vào thời điểm này, các hạn chế đối với hiện diện thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài trong dịch vụ nhượng quyền thương mại hầu như đã được gỡ bỏ. Các doanh nghiệp có thể thành lập các hiện diện thương mại với 100% vốn của mình và sẽ tiếp tục được mở chi nhánh vào năm 2010 với điều kiện trưởng chi nhánh là người thường trú tại Việt Nam. Có thể thấy, cam kết của Việt Nam với WTO là phù hợp với định hướng phát triển ngành phân phối, trong đó có dịch vụ nhượng quyền thương mại. Các nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ tận dụng những thuận lợi này để phát triển thương hiệu

cũng như công việc kinh doanh của mình. Điều này sẽ thúc đẩy đáng kể nền kinh tế nước ta nhưng cũng là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nếu như không vào cuộc ngay từ bây giờ.

2.2.Cơ sở pháp lý điều tiết hoạt động kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam

Trên bước đường phát triển và hội nhập, Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình. Trong ngành thương mại bán lẻ, nước ta cũng đã xây dựng đuợc các dự án, các quy chế để hướng dẫn thi hành và quản lý hoạt động bán lẻ với mục tiêu vừa tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước phát triển, vừa tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

2.2.1. Quy chế siêu thị, trung tâm thương mại:

Ngày 24/9/2004, Bộ Thương mại (nay là Bộ công thương ) đã ra quyết định số 1371/QĐ-BTM về quy chế siêu thị va ftrung tâm thương mại.

* Siêu thị hạng 1 phải có diện tích tối thiểu là 5.000m2 và có 20.000 chủng loại hàng hóa trở lên;

* Siêu thị hạng 2 có diện tích từ 2.000m2 và 10.000 chủng loại hàng hóa

trở lên;

* Siêu thị hạng 3 phải có diện tích tối thiểu 500m2 và 4.000 chủng loại

hàng hóa trở lên;

Về các trung tâm thương mại cũng chia làm 3 hạng:

* Các trung tâm thương mại hạng 1 phỉa có diện tích từ 50.000m2 trở lên;

* Các trung tâm thương mại hạng 2 phải có diện tích là 30.000m2

* Các trung tâm thương mại hạng 3 phải có diện tích là 10.000m2

Ngoài ra, QĐ 1371 còn nêu rõ các siêu thị, trung tâm thương mại phải có đủ tiêu chuẩn như : nơi để xe, khu vệ sinh, các dịch vụ đi kèm, hệ thống nhà hàng…chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm…

Theo tiêu chuẩn của Bộ Công thương, hiện cả nước có tới 33% số lượng siêu thị chưa đáp ứng được tiêu chuẩn phân hạng siêu thị, 44,7% số siêu thị đạt siêu

thị hạng 3; 11,7% đạt siêu thị hạng 2 và chỉ có 10,6% đạt siêu thị hạng 12. Đa số siêu thị hạng 3 có danh mục hàng hóa nghèo nàn, giá bán thiếu cạnh tranh, dịch vụ khách hàng còn yếu, công tác quản lý còn nhiều yếu kém và hiệu quả kinh doanh không cao..

2.2.2. Lộ trình cam kết mở cửa của Việt Nam :

Năm 2006 đánh dấu một điểm mốc cực kỳ quan trọng trong nỗ lực hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. Sau nhiều nỗ lực đàm phán, ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngay sau đó, Việt Nam được hưởng Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) của Mỹ ngày 20/12/2006. Cùng thời điểm đó, các cam kết gia nhập của Việt Nam bắt đầu có hiệu lực. Việt Nam cam kết mở cửa lĩnh vực phân phối hàng hóa, theo đó, các hạn chế về vốn chủ sở hữu, mặt hàng kinh doanh sẽ được xóa bỏ sau 3 năm kể từ ngày gia nhập. Lộ trình cam kết mở cửa của Việt Nam như sau: Việt Nam cam kết cả 4 loại hình phân phối là bán lẻ, bán buôn, đại lý hoa hồng và nhượng quyền thương mại.

- 01/01/2008: cho phép liên doanh không hạn chế vốn góp từ phía nước

ngoài.

- 01/01/2009: cho phép thành lập doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước

ngoài. Việc thành lập các cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) chỉ được xem xét tùy theo từng trường hợp cụ thể.

-01/01/2010: các doanh nghiệp FDI được phép cung cấp dịch vụ bán buôn, bán lẻ tất cả các mặt hàng sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.

Mức độ mở rộng thị trường như sau:

- Từ 11/01/2007, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được phép phân phối những mặt hàng như xi măng, Clinke, lốp (trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con, xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu, phân bón.


2 Nguồn: Bộ Công thương, Vụ chính sách và thị trường trong nước

- Từ 01/01/2009, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ bán buôn, bán lẻ tất cả các mặt hàng sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam3.

2.2.3. Đề án “Chiến lược phát triển thương mại nội địa 2006-2010, định hướng đến năm 2015 và năm 2020”:

Để củng cố thương mại nội địa trước thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển hệ thống phân phối và bán lẻ. Cuối năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Chiến lược phát triển thương mại nội địa 2006-2010, định hướng đến năm 2015 và năm 2020”. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển thương mại nội địa đề ra 2 định hướng lớn:

Thứ nhất là tổ chức lại thương mại nội địa, theo 2 hướng: Xây dựng các nhà phân phối gắn với địa bàn cụ thể và xây dựng các nhà phân phối có tính hệ thống, dựa trên các mối liên kết trong quá trình lưu thông và giữa lưu thông với sản xuất, tiêu dùng. Trong đó, có hệ thống phân phối chuyên ngành như xăng dầu, xi măng, sắt thép, phân bón…và hệ thống phân phối đa ngành như các trung tâm bán buôn, hoặc chuỗi cửa hàng bán lẻ…

Thứ hai là hoàn chỉnh môi trường pháp lý để quản lý và điều tiết vĩ mô về thương mại nội địa, đảm bảo thị trường phát triển nhanh, mạnh và bền vững.

Dự kiến sẽ có khoảng 15-20 doanh nghiệp được chọn làm doanh nghiệp trọng điểm, gồm nhiều loại hình kinh doanh như: trung tâm thương mại, siêu thị, chợ, tổng công ty thương mại, mạng lưới bán lẻ, chợ đầu mối….và nhiều thành phần kinh tế, để phát triển cơ sở, mạng lưới kinh doanh, làm nòng cốt, bộ xương cho thương mại nội địa, xây dựng chiến lược phát triển trong vòng 5-10 năm trở thành nhà phân phối lớn, có uy tín, đủ sức cạnh tranh “ngang ngửa” với các nhà phân phối nước ngoài. Tuy nhiên, những trợ cấp của Nhà nước sẽ không phải mang tính trợ cấp mà chủ yếu là tạo điều kiện pháp lý, cơ sở hạ tầng…cho những doanh nghiệp nay.


3 Nguồn: Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2006) , “WTO – các văn kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới của Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, trang 838,839

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NQTM TRONG LĨNH VỰC BÁN LẺ TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM‌‌

I – Đặc điểm ngành kinh doanh bán lẻ tại Việt Nam

1. Thị trường bán lẻ hấp dẫn

AT Kearney (http://www.atkearney.com) là tập đoàn nghiên cứu, tư vấn thị trường hàng đầu thế giới có trụ sở tại Hoa Kỳ. Kể từ năm 2001, AT Kearney tiến hành công bố các nghiên cứu thường niên về độ hấp dẫn đầu tư bán lẻ ở 30 thị trường thông qua chỉ số phát triển bán lẻ chung GRDI (Global Retail Development Index). Chỉ số GRDI là thông tin khách quan, đáng tin cậy giúp các tập đoàn bán lẻ hoạch định các chiến lược phát triển toàn cầu bằng việc đánh giá các thị trường mới trỗi dậy dựa trên 25 tiêu chí trong đó có các nguy cơ kinh tế, chính trị, độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ, mức bão hòa của thị trường bán lẻ và sự khác nhau giữa tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) và tăng trưởng bán lẻ.

- Năm 2007: Việt Nam xếp thứ 4 sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc, Việt Nam đứng thứ 4 thế giới với chỉ số phát triển bán lẻ chung đạt 74 điểm.

- Năm 2008: Lần đầu tiên Việt Nam vượt qua các đối thủ của năm 2007 là Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để dẫn đầu danh sách thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới trong năm 2008.

- Năm 2009, Việt Nam rơi xuống vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng. Theo AT Kearney, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng mạnh từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quý 1 năm 2009, kinh tế phát triển chậm ở mức 3.1% so với mức 7.4% cùng kỳ năm 20084. Chính phủ tìm cách đối mặt với tình trạng lạm phát, dần chuyển sang đương đầu với nguy cơ giảm phát. Những điều này đã ảnh hưởng ít nhiều tới thị trường bán lẻ Việt Nam trong năm 2009. Mặc dù, Việt Nam đang gặp phải những thách thức trong ngắn hạn nhưng trong dài hạn vẫn là thị trường đầy hứa hẹn.


4 Nguồn: Báo cáo xếp hạng chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu năm 2009, Tập đoàn AT Kearney, tr.11-12

Bảng 1: Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu năm 2009 (GRDI)

TThứ tự

Nước

Khu vực

Rủi ro quốc gia (25%)

Độ hấp

dẫn của thị

trường

(25%)

Độ bão

hòa của thị trường (30%)

Áp lực thời gian (20%)

Điểm GRDI

Thay đổi so với năm

trước

11

Ấn Độ

Châu Á

45

34

86

97

68

+1

22

Nga

Đông Âu

31

58

51

100

60

+1

33

Trung

Quốc

Châu Á

62

42

47

74

56

+1

44

Các Tiểu vương quốc Ả

rập

Tây Á

89

66

50

21

56

+16

55

Ả rập Xê

út

Trung

Đông

70

46

68

39

56

+2

66

Việt Nam

Châu Á

34

16

74

97

55

-5

77

Chile

Mỹ Latin

77

58

51

33

55

+1

88

Brazil

Mỹ Latin

52

60

68

31

53

+1

99

Slovenia

Đông Âu

10

64

12

33

52

+14

110

Malaisia

Châu Á

65

47

48

45

51

+3

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong ngành bán lẻ tại thị trường Việt Nam - 5

Nguồn: Báo cáo xếp hạng chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu năm 2009 – Tập đoàn AT Kearney.

Sự phát triển nhanh chóng của thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm vừa qua đã biến Việt Nam thành điểm đến đầy hấp dẫn đối với các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia. Doanh thu bán lẻ ở thị trường Việt Nam tăng trưởng hàng năm ở mức 18 % - 22% trong giai đoạn 2003-2007. Hơn thế nữa, hiện tại Việt Nam có khoảng 140 siêu thị và đại siêu thị, 20 trung tâm thương mại và gần 1 triệu m2 đang trong quá trình xây dựng dành cho kinh doanh bán lẻ.5

2. Quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam

* Số lượng doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ tăng lên nhanh chóng:

Số lượng các doanh nghiệp phân phối bán lẻ tăng bình quân trong giai đoạn 2000- 2003 vào khoảng 9,12% và tăng lên nhanh chóng từ năm 2003-2007 với tốc độ trung bình 19,14%. Số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam


5 Nguồn: Báo cáo phân tích thị trường bán lẻ Việt Nam 2008-2012, Tập đoàn RNCOS, tr.11

Ngày đăng: 20/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*