Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong ngành bán lẻ tại thị trường Việt Nam - 2

Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, thu thập tài liệu, tổng hợp và phân tích, so sánh, mô tả khái quát…dựa trên nguồn số liệu, tư liệu thu thập được trong quá trình tìm hiểu, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết về nhượng quyền thương mại.

6. Kết cấu của khóa luận: Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về nhượng quyền thương mại và phát triển nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bán lẻ.

Chương II: Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong ngành bán lẻ tại Việt Nam.

Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng hình thức nhượng quyền thương mại trong ngành bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giảng viên hướng dẫn, cô giáo ThS. Nguyễn Thị Thu Trang đã hướng dẫn tận tình cho tác giả trong quá trình thực hiện khóa luận này. Đồng thời, tác giả xin cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Ngoại Thương đã giảng dạy và truyền thụ những kiến thức quý báu cho tác giả trong thời gian học tập tại trường.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TRONG NGÀNH BÁN LẺ‌‌

I – Cơ sở lý luận về NQTM

1. Định nghĩa về nhượng quyền thương mại :

Thuật ngữ tiếng Anh “franchising” được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi khác nhau : Chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu; cấp phép đặc quyền kinh doanh; nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, theo Điều 284 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thuật ngữ “franchising” được hiểu là “ nhượng quyền thương mại”. Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả thống nhất sử dụng thuật ngữ “nhượng quyền thương mại”. Trên thế giới, hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhượng quyền thương mại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

- Theo Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commision

– FTC), Franchise là một hợp đồng hay một thỏa thuận được ký kết giữa ít nhất 2 người, trong đó: người mua franchise được quyền bán hay phân phối sản phẩm, dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống marketing của người chủ thương hiệu. Hoạt động của người mua franchise phải triệt để tuân theo hệ thống marketing này, phải gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, quảng cáo và những biểu tượng thương mại khác của chủ thương hiệu. Người mua phải trả một khoản phí trực tiếp hay gián tiếp gọi là phí franchise.

Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại trong ngành bán lẻ tại thị trường Việt Nam - 2

Định nghĩa trên thể hiện nội dung các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại, trong đó, nhấn mạnh tới quyền và nghĩa vụ của bên nhận quyền.

- Theo Hiệp hội Nhượng quyền Thương mại Quốc tế ( International Franchise Association- IFA), “Franchising là mối quan hệ liên tục, trong đó, bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền được kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cộng với những hỗ trợ về tổ chức, đào tạo, cách thức kinh doanh, quản lý, đổi lại nhận được một khoản tiền nhất định từ bên mua”.

Định nghĩa này thể hiện nét đặc thù riêng của nhượng quyền thương mại là “mối quan hệ liên tục” khá đặc biệt giữa hai bên tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại và mối quan hệ này được duy trì trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của cửa hàng nhượng quyền. Ngoài ra, định nghĩa cũng đề cập đến những hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền và phí nhượng quyền.

- Theo Luật thương mại năm 2005 (Luật số 36/2005/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006),

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.

Định nghĩa về nhượng quyền thương mại trong Luật Thương mại 2005 đã nêu được những nét chính, đặc trưng của nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, định nghĩa đã bỏ qua, không đề cập tới một yếu tố chính đó là phí nhượng quyền.

Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhượng quyền thương mại vì các định nghĩa đều dựa trên quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau của người viết hay của các nhà làm luật tại mỗi tổ chức, mỗi quốc gia nhưng từ các định nghĩa khác nhau này, chúng ta vẫn thấy rõ những đặc điểm của nhượng quyền thương mại như sau:

2. Các đặc điểm của nhượng quyền thương mại :

- Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, hay nói cách khác nhượng quyền thương mại là hoạt động nhằm phân phối hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực thương mại. Việc xác định nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại khẳng định mục đích sinh lợi của hoạt động này, giúp các doanh nghiệp

xác định được Luật áp dụng, các quy định về thương mại, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại và cơ quan tài phán giải quyết khi có tranh chấp giữa các bên xảy ra khi thực hiện hoạt động này.

- Nhượng quyền thương mại được thực hiện thông qua hợp đồng: theo đó, bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng thương hiệu hay tên tuổi của mình trong việc bán hàng hóa, dịch vụ và cửa hàng của bên nhận quyền phải được dễ dàng biết tới thông qua thương hiệu của bên nhượng quyền.

- Bên nhượng quyền là bên đang sở hữu hay kiểm soát một hệ thống và phương thức kinh doanh gắn liền với các đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến việc kinh doanh. Phương thức kinh doanh ở đây được hiểu bao gồm tất cả các yếu tố giúp cho việc kinh doanh như quy trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ, tiêu chuẩn sản phẩm. dịch vụ, chiến lược kinh doanh,chính sách quảng cáo, chính sách khách hàng, đào tạo, chế độ kế toán, kiểm toán. Các đối tượng sở hữu trí tuệ gắn với việc kinh doanh bao gồm các yếu tố tạo nên thương hiệu riêng của bên nhượng quyền, gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu.

- Bên nhận quyền là một bên hoạt động kinh doanh độc lập và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. Đây là đặc điểm làm nên nét đặc trưng của nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền không có quan hệ về sở hữu vốn đối với bên nhượng quyền. Ngay cả trong trường hợp liên doanh, bên nhượng quyền sẽ góp vốn bằng thương hiệu, cách thức kinh doanh, còn bên nhận quyền sẽ góp vốn bằng đất đai, tài sản, nhân lực… Quan hệ giữa hai bên là quan hệ hợp đồng thương mại.

- Bên nhận quyền phải tiến hành toàn bộ hay một phần hoạt động kinh doanh theo hợp đồng nhượng quyền thương mại phù hợp với kế hoạch và hệ thống tiếp thị kinh doanh, kỹ thuật của bên nhượng quyền.

- Bên nhận quyền phải trả cho bên nhượng quyền một khoản phí nhượng quyền ban đầu và phí định kỳ, thường là % doanh thu hay một khoản tiền cố định.

- Bên nhận quyền có thể phải mua sản phẩm cụ thể từ bên nhượng quyền.

- Trong suốt thời hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyên có trách nhiệm kiểm soát và trợ giúp kỹ thuật, kinh doanh, marketing và đào

tạo cho bên nhận quyền. Đây là điểm đặc trưng của nhượng quyền thương mại, giúp phân biệt với các hình thức kinh doanh thông thường khác.

- Hợp đồng nhượng quyền thương mại thường có một số điều khoản nhất định, thường kèm theo một quyền lựa chọn gia hạn và quyền lựa chọn này thuộc về người nhận quyền theo những điều kiện và điều khoản nhất định.

- Theo báo cáo của một nhóm nghiên cứu về ảnh hưởng kinh tế của các doanh ghiệp nhượng quyền thương mại do Công ty Pricewaterhouse Coopers thực hiện cho IFA năm 2004, “Nhượng quyền thương mại về cơ bản hay bản thân nó không phải là một ngành công nghiệp, mà chỉ là một kỹ thuật marketing trong việc phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ” , có thể được áp dụng đa dạng trong một hay nhiều ngành công nghiệp khác nhau như bán lẻ hàng tiêu dùng; dịch vụ nghề nghiệp; dịch vụ kỹ thuật; nhà hàng khách sạn; cửa hàng thức ăn nhanh.

3. Các hình thức nhượng quyền thương mại

3.1. Căn cứ theo bản chất của hoạt động nhượng quyền thương mại

Năm 1976, Ủy ban Giám sát Luật Thương mại ( Ủy ban Swanson) của Úc đã phân loại ba hình thức nhượng quyền thương mại như sau:

- Nhượng quyền thương mại sản phẩm: theo đó, một nhà phân phối đóng vai trò như một nơi tiêu thụ bán buôn, bán lẻ các sản phẩm, hàng hóa của một nhà sản xuất tại một thị trường nhất định một cách độc quyền. Hình thức này khá phổ biến trong lĩnh vực phân phối, bán lẻ xăng, ô tô.

- Nhượng quyền thương mại sản xuất hàng gia công: theo đó, bên nhượng quyền cung cấp những nguyên liệu chủ yếu, bí quyết kỹ thuật cho người sản xuất hay người nhận gia công. Áp dụng phổ biến trong công nghiệp nước giải khát.

- Nhượng quyền thương mại hệ thống : theo đó, bên nhượng quyền phát triển một cách thức kinh doanh riêng kèm theo một hệ thống kinh doanh và cho phép bên nhận quyền sử dụng cách thức và hệ thống kinh doanh này trong hoạt động độc lập của bên nhận quyền theo một cách thức có kiểm soát. Hình thức này phổ biến trong kinh doanh các cửa hàng thức ăn nhanh, cửa hàng dịch vụ giặt là, khách sạn. Có khi bên nhượng quyền chỉ cung cấp thương hiệu, bán quyền hay công thức kinh doanh, cũng có khi là cả hàng hóa hay dịch vụ. Nhượng quyền thương

mại hệ thống thường được biết tới là hình thức nhượng quyền công thức kinh doanh.

3.2. Căn cứ theo lĩnh vực nhượng quyền thương mại:

- Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực phân phối sản phẩm (Product Distribution Franchise): tức là bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền phân phối, tiêu thụ sản phẩm theo phương thức kinh doanh và dưới nhãn hiệu hàng hóa của bên nhượng quyền, ví dụ tiêu thụ ô tô, bán hàng mỹ phẩm, hàng may mặc của những hãng nổi tiếng thế giới. Bên nhận quyền thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ bên nhượng quyền, ngoại trừ được phép sử dụng nhãn hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu và phân phối sản phẩm của bên nhượng quyền trong một khu vực nhất định và thời gian nhất định. Bên nhận quyền quản lý, điều hành cửa hàng nhượng quyền khá độc lập, ít bị ràng buộc bởi những quy định của bên nhượng quyền, thậm chí họ có thể kinh doanh theo ý mình. Bên nhượng quyền chủ yếu quan tâm đến việc phân phối sản phẩm và không quan tâm đến hoạt động hàng ngày hay hình thức của cửa hàng nhượng quyền. Có thể có các hình thức khác nhau tùy theo vị trí của bên nhượng quyền trong kênh phân phối ( từ sản xuất-phân phối-tiêu dùng) là người sản xuất hay cũng là người phân phối.

- Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực dịch vụ (Service Franchise): Tức là bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền quyền cung cấp các dịch vụ thoe phương thức kinh doanh và dưới nhãn hiệu dịch vụ của bên nhượng quyền. Đây là hình thức được đặc trưng bởi một bí quyết cung cấp dịch vụ. Bên nhượng quyền chuyển giao cho bên nhận quyền một bí quyết kinh doanh hoàn chỉnh cho phép cung cấp cho khách hàng một dịch vụ đặc thù của hệ thống. Hình thức này thường được áp dụng trong dịch vụ sửa chữa ô tô, dịch vụ phục vụ thẻ thanh toán, giặt là….

- Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực sản xuất( Production Franchise): theo đó bên nhận quyền sẽ sản xuất hàng hóa, sản phẩm theo sự hướng dẫn của bên nhượng quyền và bán sản phẩm, hàng hóa đó dưới thương hiệu của bên nhượng quyền. Phổ biến trong các lĩnh vực cửa hàng thức ăn nhanh, sản xuất kem…

3.3. Phân loại theo hình thức phát triển hoạt động nhượng quyền :

* Đại lý franchise độc quyền (Master franchise):

- Bên nhượng quyền : là chủ thương hiệu

- Bên nhận quyền : còn được gọi là đại lý franchise độc quyền, thường là các công ty hay tổ chức lớn có tiềm lực tài chính rất mạnh, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường khu vực, có khả năng mở rộng kinh doanh hơn nữa.

- Đặc điểm: Đại lý franchise độc quyền được độc quyền kinh doanh trong một phạm vi khu vực địa lý rộng, có thể là một quốc gia hay một khu vực như Đông Nam Á. Đại lý franchise độc quyền được chủ động mở thêm nhiều các cửa hàng kinh doanh đơn lẻ mà không cần phả thông qua sự chấp nhận của chủ thương hiệu. Đặc biệt, Đại lý franchise độc quyền có quyền nhượng quyền thương mại lại cho bên thứ ba ( bên nhận quyền thứ cấp – Sub Franchise) nằm trong khu vực mình kiểm soát dưới hình thức nhượng quyền trực tiếp, riêng lẻ hoặc nhượng quyền phát triển khu vực nhỏ hơn và trực tiếp ký kết hợp đồng với họ. Đại lý franchise độc quyền có trách nhiệm và phải cam kết với chủ thương hiệu về số lượng cửa hàng nhượng quyền tối thiểu được thành lập trong một khoảng thời gian nhất định của hợp đồng, nếu không sẽ bị mất độc quyền. Để đáp ứng số lượng do chỉ tiêu đặt ra, bước đầu bên nhận quyền thường tự đứng ra mở thêm các cửa hàng sau đó mới tập trung tìm kiếm bên nhận quyền thứ cấp. Đại lý franchise độc quyền sẽ đại diện chủ thương hiệu cung cấp các chương trình đào tạo, dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, thực hiện các công đoạn quản lý, giám sát toàn bộ hệ thống nhượng quyền trong phạm vi khu vực mình quản lý.

- Phí nhượng quyền: Phí nhượng quyền ban đầu cao hơn gấp nhiều lần so với phí nhượng quyền riêng lẻ, trực tiếp. Về phần phí nhượng quyền thu được từ bên thứ ba nhận quyền thứ cấp, chủ thương hiệu và đại lý franchise độc quyền ăn chia theo tỷ lệ đã thỏa thuận trước. Thông thường, đại lý franchise độc quyền được hưởng phần phí nhiều hơn, do họ phải bỏ ra nhiều chi phí và công sức hơn để tìm bên thứ ba nhận quyền và hỗ trợ phát triển hệ thống trong khu vực mình quản lý.

- Thời gian hợp đồng: thường đủ dài khoảng từ 10 đến 20 năm để cho đại lý franchise độc quyền có thể phát triển được hệ thống, thu hồi được vốn đầu tư cơ sở hệ thống ban đầu và kinh doanh có lãi.

- Lợi thế: Có thể nói chủ thương hiệu đã chuyển hầu hết gánh nặng phát triển thương hiệu và xây dựng hệ thống nhượng quyền sang cho đại lý franchise độc quyền trong phạm vi lãnh thổ đại lý franchise độc quyền quản lý.

- Hạn chế: Do đại lý franchise độc quyền đã đầu tư một khoản vốn lớn để mua franchise độc quyền, nên họ thường chịu áp lực trong kinh doanh là phải thu hồi vốn nhanh và thu lợi nhuận lớn bù đắp việc phát triển hệ thống. Ngoài ra, họ phải chịu áp lực về chỉ tiêu số lượng cửa hàng nhượng quyền phải mở trong thời gian quy định, do đó, họ dễ dàng bỏ qua các tiêu chuẩn về chất lượng để đạt mục đích về số lượng cửa hàng. Họ có thể nới lỏng các quy định về tính đồng bộ vốn là nền tảng và sự sống còn của mô hình kinh doanh nhượng quyền thương mại nhằm thu hút các đối tác mua nhượng quyền cho mình nhiều nhất có thể. Hình thức này đặt ra thách thức với chủ thương hiệu trong việc tìm kiếm và lựa chọn đối tác nhượng quyền. Đối tác này phải hội đủ nhiều điều kiện như khả năng tài chính lớn mạnh, am hiểu thị trường địa phương, có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh nhượng quyền, đặc biệt phải thấu hiểu và tin tưởng tuyệt đối vào hệ thống kinh doanh của chủ thương hiệu.

- Áp dụng thực tế : Khi mở rộng thị trường ra nước ngoài thông qua nhượng quyền thương mại, đa số chủ thương hiệu lớn, nổi tiếng thế giới bước đầu đều nhượng quyên thương mại theo kiểu đại lý franchise độc quyền hoặc nhượng quyền thương mại phát triển khu vực cho đối tác là một công ty nội địa.

* Nhượng quyền thương mại phát triển khu vực (Area Development Franchise)

- Bên nhượng quyền: là chủ thương hiệu hoặc đại lý franchise độc quyền.

- Bên nhận quyền: thường là các công ty lớn có tiềm lực tài chính mạnh, kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường, có khả năng mở rộng kinh doanh.

Ngày đăng: 20/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*