sâu sắc và chất lượng, nội dung của chính sách đến đối tượng thụ hưởng lợi ích từ chính sách giảm nghèo. Để người nghèo thấy được họ vừa là đối tượng hưởng lợi từ chính sách vừa là một bên tham gia vào quá trình thực hiện chính sách nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Thứ tư, tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể của địa phương trong việc xây dựng cũng như hướng dẫn, theo dõi tổ chức thực hiện các chính sách giảm nghèo ở địa phương mình. Tăng cường sự phối hợp hoạt động với UBMTTQ và các tổ chức CTXH trong việc tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện cũng như tham gia giám sát các nội dung của chính sách, chương trình giảm nghèo.
Thứ năm, củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo giảm nghèo ở các cấp, duy trì hoạt động thường xuyên của Ban chỉ đạo. Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên và trách nhiệm trong tổ chức thực hiện. Củng cố, kiện toàn cơ quan giúp việc Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp theo hướng có bộ máy chuyên trách làm công tác giảm nghèo nhưng không tăng biên chế được giao ở các cấp (văn phòng giảm nghèo đặt tại Sở LĐTB&XH giúp việc Ban chỉ đạo giảm nghèo của tỉnh, biên chế từ 3-5 cán bộ chuyên trách; bố trí ít nhất 01 biên chế chuyên trách giảm nghèo cấp huyện; 01 công chức Văn hóa - Xã hội, cần thêm phụ cấp cho 01 cán bộ theo dõi giảm nghèo cấp xã, sử dụng chức danh công chức xã phụ trách công tác đoàn thể đảm nhiệm công việc này).
3.2.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện
Đây là một công việc vô cùng quan trọng vì nó sẽ cho biết chính sách được triển khai đến đúng đối tượng hay không. Để hoạt động giám sát thực sự có chất lượng cần có chức năng phản biện của xã hội, phải tăng cường kiểm tra, đánh giá của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh về giảm nghèo. Làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá quản lý theo muc tiêu chính sách bằng các chỉ số để từ đó làm căn cứ cho việc đánh giá kết quả của chính sách.
Để kết quả kiểm tra, đánh giá được khách quan, các địa phương cần thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, công khai các Chương trình, Dự án, nhất là nguồn lực tài chính để thực hiện chính sách. Việc công khai, minh bạch phải gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ quan thực hiện, đây là tiền đề để xác định quyền hạn cũng như trách nhiệm của cơ quan tham gia vào quá trình thực hiện chính sách. Đồng thời, công khai thông tin về quá trình chính sách cũng là tạo điều kiện cho người dân có điều kiện được biết thông tin chính sách để thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện kiểm tra giám sát, nhất thiết phải có sự tham gia của đại diện các tổ chức CTXH ở địa phương, đặc biệt là sự tham gia của đại diện người dân như: già làng, trưởng buôn hoặc đại diện người nghèo, hộ nghèo. Đồng thời, sự tham gia của các tổ chức đoàn thể và đối tượng chính sách trong quá trình kiểm tra, giám sát sẽ giúp cho các cấp chính quyền có thể tìm kiếm được những biện pháp, cơ chế thực hiện chính sách phù hợp hơn với những điều kiện cụ thể của địa phương mình, ngành mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm, Yêu Cầu Trong Thực Hiện Chính Sách Giảm Nghèo Bền Vững Đối Với Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Đắk Nông
- Đảm Bảo Gắn Chính Sách Giảm Nghèo Bền Vững Vào Một Chương Trình Cụ Thể
- Tăng Cường Công Tác Phổ Biến Tuyên Truyền Về Chính Sách Xóa Đói Giảm Nghèo Và Trợ Giúp Pháp Lý Cho Người Nghèo
- Kết Quả Khảo Sát Hộ Nghèo (Mẫu:m1)
- Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông - 16
- Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông - 17
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
3.3.1. Đối với Trung ương
Để đảm bảo phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào DTTS bền vững, đề nghị các Bộ, ngành Trung ương nghiên cứu và xây dựng hệ thống chính sách thực hiện công tác dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số miền núi mang tính ổn định trong thời gian dài, tác động trực tiếp đến mục tiêu giảm nghèo. Đồng thời, hạn chế những chính sách ngắn hạn, nhỏ lẻ, làm cho nguồn lực phân tán, hiệu quả giảm nghèo thấp, ít thu hút được sự tham gai của người dân vào thực hiện chính sách. Đặc biệt, cần tăng nguồn vốn hỗ trợ cho phát triển sản xuất, giúp hộ nghèo đồng bào dân tộc miền núi có điều kiện tổ chức sản xuất, vươn lên thoát nghèo.
Xem xét bổ sung một số chính sách đối với các hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình ở vùng dân tộc miền núi, vùng đặc biệt khó khăn
nhất là chính sách phát triển sản xuất, , hỗ trợ xóa nhà ở tạm, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt, giáo dục đào tạo, y tế và các chính sách an sinh xã hội khác, nhằm tạo điều kiện để các hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình ở vùng dân tộc miền núi thoát nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo.
Vùng miền núi dân tộc là khu vực còn nhiều tiềm năng nhưng cũng còn nhiều khó khăn, Trung ương cần quan tâm có cơ chế, chính sách hỗ trợ, tần suất đầu tư và tạo thuận lợi cho việc thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, sử dụng lao động tại địa phương là người đồng bào dân tộc thiểu số nghèo,...
Nghiên cứu tăng định mức hỗ trợ các chính sách an sinh xã hội để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay như: chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó khăn, chính sách hỗ trợ vay vốn đối với hộ nghèo đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó khăn,...
Chính sách GNBV khác với chính sách bảo trợ xã hội, nghĩa là không phải cho người nghèo “xâu cá” mà nên cho người nghèo “cần câu”, nghiên cứu nghiêm túc, cách đi thực tế đối với GNBV, không phải là áp đặt từ trên xuống dưới mà phải từ thực tiễn, trả lời câu hỏi “Giảm nghèo cho ai? Do ai làm? Ai hưởng lợi?” Phải “đưa cuộc sống đi vào chính sách”
3.3.1. Đối với địa phương
Tiếp tục cụ thể hoá mục tiêu, giải pháp thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh vào chương trình phát triển KTXH của địa phương, nghị quyết chuyên đề của HĐND - UBND.
Trước khi triển khai thực hiện chính sách, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền về chủ trương chính sách, các quy định của nhà nước có liên quan đến cán bộ và nhân dân phù hợp với điều kiện địa lý, văn hóa, ngôn ngữ và năng lực của từng vùng, từ đó tạo sự đồng thuận giữa các cấp, các ngành và người dân.
Đảng bộ, chính quyền các cấp cần xác định công tác thực hiện chính sách giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị hàng đầu được thực hiện thường xuyên, liên tục. Quá trình thực hiện phải lấy lợi ích của người dân là lợi ích cao nhất, từ đó tăng cường chỉ đạo, tập trung công sức, trí tuệ để triển khai, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả của chính sách tại địa phương.
Đối với mỗi ngành, mỗi cấp, cần có cơ chế quản lý một cách hệ thống, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp các ngành với nhau trên địa bàn tỉnh nhằm tạo sự liên kết, phối hợp, chia sẻ thông tin, bài học kinh nghiệm.
Cần quan tâm đến công tác dự báo, lập kế hoạch, tổng hợp kết quả thực hiện qua các cuộc họp sơ kết, tổng kết, hội thảo rút kinh nghiệm theo từng chuyên đề, từ đó kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của địa phương, cơ sở và của từng đơn vị thực hiện.
Đẩy mạnh đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc miền núi. Tăng cường các chính sách đặc thù để thu hút đội ngũ tri thức trẻ công tác tại xã đặc biệt khó khăn. Quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân tộc ở các cấp, có quy hoạch sử dụng cán bộ trẻ người đồng bào DTTS, huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức làm công tác giảm nghèo nhất là đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Phương châm, mỗi cán bộ, công chức làm công tác giảm nghèo trong giải quyết công việc, dù việc nhỏ hay lớn cũng phải chú tâm, hết sức hết lòng, lấy dân làm trọng. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát liên ngành tại các huyện, các xã đặc biệt khó khăn.
Giảm bớt thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho người dân được thụ hưởng lợi ích của chính sách một cách nhanh chóng và thuận tiện, tránh những thủ tục phức tạp không cần thiết gây nên khó khăn đối với cả những người thực hiện chính sách và đối tượng thụ hưởng.
Để đảm bảo đủ kinh phí cho công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và hiệu quả cho những năm tới đây, các cơ quan quản lý các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai vận động các nguồn hỗ trợ khác nhau trong tỉnh.
3.3.2. Đối với các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở các cấp tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động sự tham gia của xã hội và cộng đồng trong thực hiện chính sách giảm nghèo trên cơ sở phối hợp với chính quyền cùng cấp. Việc tham gia vào quá trình thực hiện chính sách của các tổ chức CTXH cần phải được thực hiện trong tất cả các bước của quy trình thực hiện chính sách bao gồm: phối hợp để xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, phối hợp trong phổ biến, tuyên truyền chính sách, phối hợp trong phân công thực hiện chính sách, phối hợp trong theo dõi kiểm tra, đôn đốc và đánh giá việc thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
Các tổ chức CTXH góp phần quan trọng trong xây dựng mối đoàn kết chia sẻ giữa người khá với người khó khăn trên tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no” với nhiều hoạt động quyên góp trao tặng, dần dần người dân, doanh nghiệp, nhà hảo tâm tin tưởng và ủng hộ kinh phí đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời, các tổ chức CTXH cần phải tăng cường tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu của bà con nhân dân hộ nghèo để việc giúp đỡ thật sự hiệu quả, sát thực, tránh trường hợp cái cần không tặng, tặng cái không cần.
Trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo, các cấp chính quyền phải cùng với các tổ chức CTXH ở cấp mình thường xuyên tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Kiểm tra thường xuyên giúp cho chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội nắm bắt được tình hình thực hiện, từ đó đánh giá được khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
Các tổ chức CTXH phải luôn phát huy tinh thần tiên phong, trên nền cái cũ hữu ích để tìm tòi sáng tạo nên cái mới thiết thực giúp đỡ được nhiều hộ nghèo, quan trọng là làm hết sức hết mình với mỗi nhiệm vụ được giao, tiếp tục đa dạng phương pháp tuyên truyền để nâng cao hiểu biết trong nhân dân, đảm bảo giảm nghèo mang tính bền vững lâu dài.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách GNBV, căn cứ vào thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Theo tác giả, những yếu tố ảnh hưởng mang tính đặc thù của tỉnh như đã được phân tích thì kết quả thực hiện chính sách GNBV ở tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua tuy có hạn chế nhưng đạt được kết quả rất đáng khích lệ. Trên cơ sở đánh giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong tổ chức triển khai thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, với những quan điểm trong thực hiện chính sách GNBV, luận văn đã xây dựng hệ thống giải pháp phù hợp với những điều kiện khách quan và chủ quan nhằm giúp cho công tác tổ chức thực hiện tốt chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Với mục tiêu thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh, luận văn đã nghiên cứu xây dựng hệ thống các giải pháp dựa trên cơ sở lý luận và tính thực tiễn nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Với hai nhóm giải pháp (giải pháp chung và giải pháp cụ thể) đã tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất cho quá trình tổ chức thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, vừa phù hợp với các bước trong quá trình tổ chức thực hiện, vừa phù hợp với tính đặc thù về điều kiện thực tiễn của tỉnh trên cơ sở hướng đến kết quả đầu ra của quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo.
Với đề tài nghiên cứu, tác giả luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ tỉnh đến cơ sở và các tổ chức CTXH về những cơ chế chính sách như: ưu tiên các chính sách đối với những địa bàn khó khăn nhất, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, xã, thôn, buôn, bon ĐBKK ở tỉnh Đắk Nông, bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách giảm nghèo, tăng cường công tác quản lý nhà nước, phân công, phân cấp cụ thể trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức chính trị xã hội.
KẾT LUẬN
Từ khi thành lập tỉnh đến nay, Đắk Nông đã và đang chú trọng công tác giảm nghèo, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà các cấp, các ngành và toàn xã hội phải quan tâm. Bằng việc tổng hợp các nguồn lực trong xã hội thông qua các chính sách, dự án về: tín dụng, hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt, y tế, giáo dục; dự án hướng dẫn cách làm ăn khuyến nông, khuyến lâm; dạy nghề, dự án nâng cao năng lực và nhận thức cho cán bộ và đặc biệt là hoạt động giám sát đánh giá các chương trình dự án đã làm cho hiệu quả của chương trình giảm nghèo bước đầu đạt kết quả tốt. Kết quả đạt được là do chính quyền và các đoàn thể đã quan tâm đến người nghèo bằng những việc làm thiết thực. Sự phối hợp của các đoàn thể với các cấp chính quyền trong việc đưa chủ trương, Nghị quyết xóa đói giảm nghèo của Đảng đến với người dân là mang tính quyết định vô cùng quan trọng. Vì trong thực tế không phải bao giờ chính sách của nhà nước cũng được thực hiện một cách triệt để, không phải chính sách nào cũng có hiệu quả cao. Việc chính sách đó có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố quan trọng của các nhà tổ chức, quản lý triển khai đến đâu.
Đánh giá hiệu quả giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nói chung, tác giả nhận thấy con đường thoát nghèo của Đắk Nông vẫn còn không ít khó khăn. Trong đó khó khăn cơ bản chính là việc nâng cao trình độ, nhận thức để hộ nghèo tự lực vươn lên thoát nghèo một cách bền vững. Đồng thời, để nâng cao trình độ dân trí, nhận thức của người đồng bào dân tộc thiểu số trong công tác giảm nghèo bền vững thì giải pháp tuyên truyền, vận động là một trong những giải pháp căn cơ nhất của chính sách nhà nước về giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, để tuyên truyền một cách có hiệu quả, vận động được người dân hiểu về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về giảm nghèo bền vững thì công tác cán bộ giảm nghèo cấp cơ sở cũng cần được quan tâm sử dụng đội ngũ cán bộ có năng lực là người đồng bào dân tộc thiểu số.
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề về chính sách giảm nghèo đó là:
Trước hết là hệ thống các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung phân tích khung lý thuyết về quy trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo. Điều này có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho việc đánh giá quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2016-2020.
Thứ hai là thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm giảm nghèo một số tỉnh để rút ra bài học kinh nghiệm và khuyến nghị áp dụng cho tỉnh Đắk Nông trong việc thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba là thông qua kết quả điều tra, khảo sát, phỏng vấn người dân, cán bộ quản lý các cấp, kết hợp với các số liệu thứ cấp để phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ khâu xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện cho đến khâu kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Đối chiếu kết quả đạt được và tồn tại hạn chế đó làm tiền đề cho việc xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư là từ việc khái quát đặc điểm, tiềm năng, thách thức, xu hướng giảm nghèo đối với đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, để đưa ra quan điểm, định hướng, yêu cầu và giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách giảm nghèo, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội ở Đắk Nông góp phần xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kết quả của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện chính sách nhà nước về giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc thiểu số, cung cấp các tư liệu nghiên cứu chuyên sâu về nghèo đói… để từ đó bổ sung thêm về mặt lý luận trong việc thực hiện và ban hành các chính sách giảm nghèo.