Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 6


“a) Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa;

b) Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ;

c) Luận tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa;

d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

đ) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này” [35].

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung điều luật mới về nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, giúp cho KSV nhận thức rò nhiệm vụ và quyền hạn khi THQCT tại phiên tòa, để nâng cao nhận thức trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ.

- Công bố cáo trạng hoặc công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa:

Cáo trạng là văn bản pháp lý do VKS lập ra để khẳng định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Nội dung Cáo trạng, trên cơ sở kết quả điều tra và kiểm sát điều tra, VKS xác định một hay nhiều người thực hiện hành vi phạm tội cụ thể, từ đó truy tố ra trước Toà án để xét xử về một hay nhiều tội danh theo điều khoản hình phạt cụ thể của BLHS. Cùng với cáo trạng, hồ sơ vụ án được chuyển sang Tòa án đây là hoạt động đầu tiên của việc THQCT tại phiên tòa nhằm công khai hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi truy tố, tại phiên toà Kiểm sát viên công bố cáo trạng, xét hỏi và luận tội để bảo vệ bản cáo trạng đã truy tố. “Trước khi tiến hành xét hỏi, KSV công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không làm xấu đi trình trạng của bị cáo” (Điều 306), BLTTHS năm 2015 có quy định mới KSV trình bày ý kiến bổ sung vào cáo trạng không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, nhằm bảo đảm quyền của bị cáo (người bị buộc tội).


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh tụng nếu xét thấy có tình tiết mới có lợi cho bị cáo và làm thay đổi quyết định truy tố, thì KSV trình bày lý do quyết định rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố và phải chịu trách nhiệm về việc rút quyết định, sau phiên tòa KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo.

- Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 6

Tiếp tục quá trình điều tra, tại phiên tòa công khai với sự có mặt của các chủ thể liên quan đến vụ án chính, để bảo vệ cáo trạng của VKS, KSV chủ động xét hỏi, thẩm vấn, đưa ra những chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ đầy đủ các tình tiết từng sự việc của vụ án nên việc xét hỏi, việc tham gia xét hỏi của KSV tại phiên tòa là bắt buộc. Trình tự xét hỏi tại phiên tòa là một trong những biểu hiện rò rệt nhất của mô hình thẩm vấn của tố tụng hình sự Việt Nam, thể hiện tại Mục V “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” BLTTHS năm 2015. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi và quyết định việc xét hỏi; tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể chủ tọa phiên tòa quyết định việc hỏi ai trước, hỏi ai sau để việc xét hỏi có hiệu quả nhất. Trách nhiệm xét hỏi thuộc về HĐXX mà thực chất là chủ tọa phiên tòa, trình tự thủ tục hỏi tại phiên tòa là chủ tòa phiên tòa hỏi trước, sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc xét hỏi. Trước khi tham gia phiên tòa, KSV phải chuẩn bị, dự thảo đề cương xét hỏi, dự kiến những nội dung cần làm sáng tỏ, các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa. Tại phiên tòa, KSV ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi của HĐXX, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác, ý kiến trả lời của từng người được hỏi; khi KSV xét hỏi không hỏi lặp lại những câu hỏi đã được hỏi trước đó, chủ động hỏi những vấn đề chưa được làm rò để làm sáng tỏ. Phạm vi xét hỏi của KSV bao gồm mọi khía cạnh liên quan đến vụ án, đó là: Những chứng cứ, tình tiết xác định có tội và vô tội nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, vai trò của từng bị cáo, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân thân bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội... trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp.


Khi có những tài liệu, chứng cứ, đồ vật mới phát sinh tại phiên tòa, KSV cần kiểm tra, xét hỏi về nguồn gốc của những chứng cứ, đồ vật, tài liệu mới, xem xét tính hợp pháp và có căn cứ nhằm xác định các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mới có làm thay đổi nội dung, bản chất vụ án hay không.

Điểm mới của BLTTHS liên quan đến vấn đề xét hỏi là những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết mới để làm sáng tỏ, bị cáo này có quyền đặt câu hỏi với bị cáo khác, bị hại, đương sự, người làm chứng, người đại diện của họ về những vấn đề liên quan đến vụ án nếu được chủ tọa phiên tòa đồng ý (Điều 307, Điều 309, Điều 310, Điều 311). Để xác định, đối chiếu lời khai của bị cáo là có căn cứ hay không, HĐXX có thể thực hiện việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, xem, nghe nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Đồng thời có thể hỏi để nghe lời trình bày của đại diện các cơ quan, tổ chức, người định giá tài sản, người giám định, yêu cầu Điều tra viên, KSV, người tham gia tố tụng nêu quan điểm của mình để làm rò những quyết định hành vi tố tụng trong giai đoạn xem xét; xử lý thông tin tố giác tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử.

Trở lại việc xét hỏi (Điều 323) là việc HĐXX hỏi để làm rò những vấn đề chưa được hỏi, chưa được làm sáng tỏ. Những vấn đề đã được xét hỏi, đã được làm rò thì HĐXX không hỏi lại. Sau khi HĐXX xong, KSV phải tiếp tục tranh luận theo quy định, những vấn đề chưa được tranh luận hoặc đã tranh luận một phần thì KSV tranh luận bổ sung, không lặp lại những nội dung đã tranh luận trước đó. Khi trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì HĐXX phải quyết định trở lại việc hỏi và yêu cầu bị cáo không được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án.

Tuy nhiên, Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người điều hành xét hỏi và hỏi trước, hỏi chính; đến quyết định để hội thẩm rồi mới đến KSV - người bảo vệ quan điểm truy tố, người tham gia tố tụng khác xét hỏi. Quy định về thứ tự xét hỏi này là bất cập, nếu Thẩm phán có tinh thần đấu tranh phòng đấu tội phạm thì vô hình trung đã dẫn đến việc thẩm phán làm thay


việc của KSV nhưng nếu thẩm phán có vấn đề không trong sáng thì “sẽ vẽ đường cho hưu chạy” gây khó khăn cho việc KSV chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, không đảm bảo tính vô tư của người “làm trọng tài, phân xử”, không thể hiện đúng tinh thần của hoạt động tranh tụng. Bản chất của tranh tụng là việc tranh luận giữa các bên có lập trường tương phản nhau, yêu cầu Thẩm phán chủ tọa làm trọng tài phân xử. Thẩm phán là người điều hành xét hỏi là đúng, nhưng nếu thẩm phán là người hỏi trước, hỏi chính thì vô hình trung đã làm thay nhiệm vụ của KSV hoặc không vô tư trong việc làm rò chứng cứ buộc tội tại phiên tòa và làm mất đi vị trí là người trọng tài trung lập.

Mặt khác, sau khi truy tố thì VKS chuyển cáo trạng cùng hồ sơ vụ án đến tòa án, trong đó có cả những tài liệu, đồ vật có thể đi kèm vụ án. Nếu tại phiên tòa, bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố tụng không nhớ những nội dung trước đây đã khai hoặc mâu thuẫn hoặc bị cáo phản cung thì theo quy định Điều 308 BLHS cần phải công bố tài liệu, đồ vật để xem xét tại phiên tòa. Tuy nhiên, nếu hội đồng xét xử phối hợp công bố tài liệu theo yêu cầu của KSV thì không vấn đề nhưng nếu cho rằng trách nhiệm chứng minh, buộc tội của VKS thì lúc đó sẽ rất khó khăn cho việc phạm tội.

- Luận tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố, kết luận về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.

+ Luận tội và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa:

Luận tội là lời trình bày của KSV phân tích tội trạng, đề nghị kết tội bị cáo khi việc xét hỏi kết thúc, mở đầu cho giai đoạn tranh luận. Luận tội là sự buộc tội trực tiếp, chính thức và cuối cùng của VKS đối với bị cáo. Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014; Điều 42, 266, 320, 321 của BLTTHS năm 2015 và Quy chế 505 thì luận tội là quyền hạn nhưng cũng là nhiệm vụ của KSV thuộc trình tự tố tụng để bắt đầu hoạt động tranh luận của KSV tại phiên tòa. Luận tội có ý nghĩa pháp lý và chính trị rất lớn; luận tội của KSV thường được sự những người tham dự phiên toà và công chúng quan tâm, đặc biệt chú ý theo dòi. Xét về tính chất


pháp lý, luận tội của KSV chính là công cụ để VKS THQCT Nhà nước tại phiên toà. Để bản luận tội có chất lượng tốt, trước khi tham gia phiên toà, KSV cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để chuẩn bị dự thảo luận tội. Khi xây dựng dự thảo luận tội KSV phải đảm bảo tính có căn cứ, viện dẫn được chứng cứ chứng minh, đề xuất đường lối, quan điểm giải quyết vụ án phải chính xác, khách quan. Khi xây dựng dự thảo luận tội, KSV phải bám sát quy trình, theo đúng hướng dẫn tại Quy chế 505: Dự thảo luận tội phải theo mẫu hướng dẫn của VKSND tối cao (Mẫu số 13), đối với các vụ án trọng điểm, phức tạp, xét xử lưu động thì phải báo cáo Lãnh đạo VKS duyệt và cho ý kiến về dự thảo luận tội…

Theo quy định tại Điều 321 BLTTHS năm 2015, luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa nên tại phiên tòa, KSV cần tập trung chú ý theo dòi để nắm được toàn bộ diễn biến của phiên toà; tích cực, chủ động tham gia xét hỏi, ghi chép đầy đủ các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Trên có cơ đó, KSV tiến hành sửa chữa, bổ sung cập nhật vào nội dung của dự thảo luận tội cho chính xác, đầy đủ trước khi trình bày luận tội.

Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra đối với người bị hại và an ninh, chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Khi phân tích, đánh giá các nội dung trên, cần đúng mức, không phóng đại. Đánh giá vấn đề gì, cần phải có chứng cứ chứng minh chính xác, đầy đủ. Ngoài ra, luận tội còn phải phân tích, đánh giá các nội dung khác gồm nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì khoản 4 Điều 320 BLTTHS quy định: “bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi KSV trình bày luận tội” [35] .


Trên cơ sở phân tích, đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, KSV khẳng định nội dung truy tố của cáo trạng là đúng hay không đúng, cần phải thay đổi, bổ sung, rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội bằng hoặc nhẹ hơn hay không; kết luận và đề nghị xử lý về trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự trong vụ án. Trên cơ sở đó, KSV phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết tội về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung; biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng. Luận tội còn phải chỉ rò ra, phân tích kỹ các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và vi phạm pháp luật để kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật cụ thể nhằm góp phần vào công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và vi phạm pháp luật.

+ Tranh luận:

Mỗi mô hình tố tụng phụ thuộc vào truyền thống của mỗi quốc gia, có nhiều quan điểm về tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa. Tác giả đồng tình với quan điểm: Tranh luận của KSV tại phiên tòa sơ thẩm về hình sự là sự trả lời, sự bàn cải giữa KSV với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nhằm làm rò sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, giúp HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật [5, tr.258]. BLTTHS đã có nhiều quy định về sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc đưa ra các chứng cứ, trách nhiệm tranh luận và đối đáp dân chủ. Hội đồng xét xử không phải là một bên trong tranh tụng nhưng có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ tranh tụng. Điều 218 BLTTHS năm 2003 quy định: “Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến...” [34]. BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi mới đáng kể về tranh tụng nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm phiên tòa hình sự được xét xử công khai, khách quan, bình đẳng. Theo quy định Điều 322 BLTTHS năm 2015: “Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của


mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án” [35]. Bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề nghị của mình. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Khi đối đáp, tranh luận Kiểm sát viên phải vận dụng tổng hợp những hiểu biết, kiến thức pháp luật của mình về Bộ luật hình sự, tố tụng hình sự, Luật, các văn bản pháp luật khác (Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao, Thông tư, Nghị định của Chính phủ, Liên ngành Trung ương …) có liên quan đến việc xác định tội danh thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu, điều khoản áp dụng hình phạt, trách nhiệm dân sự … trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự đã được thẩm tra, xét hỏi công khai tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải đối đáp, tranh luận với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để chứng minh luận điểm của đại diện VKS tại phiên tòa là đúng, có căn cứ và luận điểm của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác là không đúng, không đầy đủ, không trung thực...Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ, những người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình. Tuy nhiên, Chủ tọa phiên tòa có quyền cắt, không cho trình bày những ý kiến không liên quan đến vụ án hoặc những ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Như vậy, khi THQCT tại phiên tòa, KSV bắt buộc phải tranh luận, dự thảo đề cương tranh luận phải được chuẩn bị trước, dự kiến những vấn đề cần tranh luận; tại


phiên tòa KSV phải ghi chép đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đối đáp đến cùng đối với từng ý kiến bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. KSV tổng hợp các ý kiến của người bào chữa (nhiều người bào chữa) cho bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác có cùng nội dung để đối đáp chung đối với các ý kiến đó. Khi tranh luận, KSV phải bình tĩnh, thận trọng, khách quan, tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, cần căn cứ vào lý luận của cấu thành tội phạm, phân tích, đánh giá bốn yếu tố cấu thành tội phạm, lý luận về chứng cứ để lập luận một cách lôgic theo từng vấn đề. KSV cần dựa vào các chứng cứ của vụ án, các quy định trong BLHS, BLTTHS, các văn bản dưới luật, các quy định chuyên ngành, các quy tắc trong cuộc sống để tranh luận, đối đáp, lập luận chặt chẽ khẳng định quan điểm đúng đắn của mình, kiên quyết bác bỏ ý kiến sai trái hoặc không đúng của người bào chữa, bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố tụng khác. Thực tế THQCT tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự cho thấy, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự thường tập trung tranh luận vào những vấn đề sau:

Một là, bị cáo không nhận tội, người bào chữa cho rằng bị cáo không phạm tội theo cáo trạng mà VKS đã truy tố, kết luận trong luận tội của KSV.

Hai là, bị cáo, người bào chữa thừa nhận bị cáo phạm tội nhưng với tội khác, nhẹ hơn so với tội danh mà VKS truy tố, kết luận nên đề nghị thay đổi tội danh;

Ba là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng tội danh mà VKS đã truy tố nhưng phạm vào khoản khác, nhẹ hơn so với khoản VKS đã truy tố.

Bốn là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng tội danh, điều khoản của VKS đã truy tố nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tạm hoãn phiên tòa, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.

Năm là, không đồng ý với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị loại bỏ tình tiết tăng nặng, hoặc tăng thêm tình tiết giảm nhẹ.

Sáu là, không đồng ý với loại và mức hình phạt mà KSV đề nghị vì cho rằng như vậy là nặng, không tương xứng và đề nghị mức hoặc loại hình phạt nhẹ hơn.

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí