Tăng Cường Công Tác Kiểm Tra, Giám Sát, Tổng Kết, Theo Kế Hoạch Đề Trong Việc Thực Hiện Hoạt Động Áp Dụng Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự

được suy đoán vô tội yêu cầu bị cáo phải có trang phục như người không phạm tội. Ngoài ra, việc xưng hô, sử dụng ngôn ngữ cũng như cách nói tại phiên tòa cũng cần phải thể hiện rò sự khách quan, công tâm đối với bị cáo, luôn được bảo đảm quyền suy đoán vô tội trong suốt quá trình xét xử. Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng không được sử dụng những cách xưng hô có tính chất ám chỉ, miệt thị, đay nghiến hoặc biểu hiện thái độ bực tức, khó chịu đối với bị cáo.

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, căn cứ kết quả tranh tụng để Tòa án ra bản án kết tội bị cáo hoặc ra bản án tuyên bố không phạm tội. Bởi vì, theo nguyên tắc suy đoán vô tội và nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng vẫn được tạo các điều kiện để làm rò các tình tiết trong vụ án. Vì vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội yêu cầu Tòa án luôn phải đảm bảo quyền bào chữa và quyền được tranh luận dân chủ với bên buộc tội của bị cáo tại phiên tòa. “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng truớc pháp luật… việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền, lợi ích hợp pháp”. “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng như tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Đó là những định hướng lớn trong chiến lược cải cách tư pháp được đề ra trong các nghị quyết của Bộ Chính trị.

4.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết, theo kế hoạch đề trong việc thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự

Những năm gần đây các hoạt động tố tụng hình sự, nhất là việc bắt, tạm giữ, tạm giam là những vấn đề thu hút được sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi vậy, để việc áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự đảm bảo đúng các nguyên tắc tố tụng, trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải tăng cường sự giám sát của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể như:

- Tăng cường hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc tuân thủ các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có quyền trực tiếp kiểm sát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ đó, đòi hỏi Viện kiểm sát cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, phải có kế hoạch cụ thể để thường kỳ và bất thường áp dụng quyền kiểm sát để đảm bảo cho hoạt động tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, đảm bảo quyền được suy đoán vô tội và tránh xảy ra các trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự.

- Đẩy mạnh hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua việc nghe báo cáo, thẩm tra và cho ý kiến về báo cáo công tác tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thông qua chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó cần chú trọng hoạt động chất vấn của các đại biểu dân cử.

- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với việc giám sát quá trình tố tụng, nhất là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời có cơ chế khuyến khích nhân dân, các cơ quan báo chí, truyền hình tích cực, chủ động nắm bắt thông tin vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng để kiến nghị xử lý, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm.

4.3.5. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn kịp thời những vướng mắc khó khăn và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội

Yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành là phải nắm chắc tình hình hoạt động của từng bộ phận công tác của đơn vị mình, để phân công cán bộ đủ năng lực chuyên môn, đối với từng loại vụ án cụ thể, để họ phát huy năng lực sở trường và phải thường xuyên sát sao, quản lý chỉ đạo cấp dưới để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, duy trì chế độ báo cáo thông tin, đầy đủ chính xác để có các biện pháp xử lý kịp thời như: số lượng tin báo, tố giác tội phạm (hàng giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm) và kết quả xử lý; số người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, những trường hợp bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam không

có căn cứ, quá hạn; các bị cáo do Toà án cùng cấp và cấp dưới tuyên không phạm tội; hình phạt bằng hoặc thấp hơn thời hạn tạm giam, tuyên phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ; các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo có bị tạm giữ, tạm giam kêu oan ngay từ đầu, các đương sự khiếu nại nhiều lần về việc giải quyết vụ án có việc tạm giữ, tạm giam không khách quan.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải bảo đảm chế độ tập trung thống nhất trong từng ngành; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp mình và Thủ trưởng cơ quan cấp trên. Thực hiện tốt những vấn đề này chính là tăng cường chế độ trách nhiệm và phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng ngành, từng cấp trong việc áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là cần tăng cường hơn nữa công tác hướng dẫn nghiệp vụ đối với cấp dưới bằng nhiều hình thức. Hàng năm, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao cần xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ để hướng dẫn dấu hiệu của từng loại tội phạm, đường lối giải quyết đối với từng loại án, các chuyên đề rút kinh nghiệm trong công tác nghiệp vụ, thường xuyên kiểm tra cấp mình và cấp dưới trong việc tiến hành các công tác nghiệp vụ. Thông qua kiểm tra để phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những sai phạm và phải ra thông báo rút kinh nghiệm chung. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật thì phải xử lý nghiêm minh, không được bao che, xử lý qua loa đại khái, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, dăn đe và bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh.

Về phối hợp trong hoạt động tố tụng hình sự, thực tiễn trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy, nơi nào xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các bộ phận, đơn vị nghiệp vụ trong ngành với nhau và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng thì nơi đó có điều kiện thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Mối quan hệ phối hợp ở đây được xác định bao gồm mối quan hệ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp. Quan hệ phối hợp tốt có tác dụng hỗ trợ tích cực, giúp cho việc thống nhất quan điểm trong việc thực hiện

Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay - 21

các trình tự, thủ tục tố tụng. Bởi vậy, để bảo đảm hiệu quả trong áp dụng pháp luật, các cơ quan tiến hành tố tụng cần ban hành các quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau trong từng hoạt động tố tụng để tăng cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong việc kịp thời xử lý, giải quyết các vụ án hình sự đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Đặc biệt là, các cơ quan Tòa án, Kiểm sát và Cơ quan điều tra thường xuyên trao đổi, cung cấp, thông báo cho nhau những thông tin, văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ có liên quan đến việc thực hiện các trình tự tố tụng; phối hợp kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới về nghiệp vụ nhằm phát hiện uốn nắn kịp thời những vi phạm và khắc phục những vi phạm, tội phạm xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án hình sự.

4.3.6. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về, ý nghĩa tầm quan trọng, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật không chỉ được được thể hiện qua việc giải thích về quyền con người, quyền công dân và các quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, mà còn thể hiện qua việc tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy định mà các cơ quan có thẩm quyền và người có thẩm quyền thực hiện đảm bảo đúng các quyền mà pháp luật quy định cho của người bị buộc tội được hưởng, ngược lại người bị buộc tội cũng hiểu biết quyền của mình để tự bảo vệ mình khi các quyền của mình bị bên buộc tội xâm hại. Đồng thời, trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chủ động, có trách nhiệm giải thích các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ người bị buộc tội hiểu, nhận thức đúng các quyền của mình, để hợp tác với cơ quan pháp luật. Trong nhiều trường hợp ngay chính những người liên quan (người bào chữa, người làm chứng...) cũng cần nhận thức rò trách nhiệm phối hợp để giải quyết vướng mắc, khó khăn trong quá trình tố tụng để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội (ví dụ như: tạo điều kiện cho người bào chữa được tham gia bào chữa từ giai đoạn khởi tố bị can..). Tuy nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tố tụng hình sự, cần phải tổ chức ưu tiên các đối tượng đang thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động tố tụng hình sự ( bên buộc tội) nắm rò tầm quan trọng, ý nghĩa nội dung của nguyên tắc suy đoán

vô tội; cần giải thích rò cho người bị buộc tội biết quyền của họ; cần tuân thủ triệt để pháp luật nhất là khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội trong giai đoạn tố tụng hình sự.

4.3.7. Chú trọng đào tạo, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất chính trị đạo đức nghề nghiệp của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự

Con người là nhân tố quyết định mọi sự thành bại của công việc. Để hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đạt chất lượng, hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền con người nói chung, nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng thì việc nâng cao nhận thức là một điều cần được đề cao và quan tâm thỏa đáng, nâng cao ý thức bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Từ đó cần phải quan tâm đến một số vấn đề sau:

(i) Thường xuyên không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong công tác của các chủ thể tiến hành tố tụng, theo đó người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn quán triệt, thấm nhuần chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để vận dụng vào công tác điều tra, truy tố, xét xử một cách khách quan, công tâm với tinh thần thượng tôn pháp luật, không xa ngã trước những cám dỗ của tội phạm, nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện ý thức chính trị tức là đòi hỏi những cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn luôn nắm vững các chủ trương nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như các chủ trương, nghị quyết liên quan đến công tác của mình, từ đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình làm cho nhân dân tin tưởng đồng tình, giúp người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật được đúng đắn.

(ii) Nâng cao năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng, nhất là trong việc thực hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người bị

buộc tội, bởi vì trong tố tụng hình sự, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể, quyền nhờ luật sư bào chữa và quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội.

(iii) Cần phải nghiêm cứu đề ra chế tài cụ thể, đủ sức dăn đe phòng ngừa, ngăn chặn sự tùy tiện, nhất là lỗi chủ quan của bên buộc tội xâm phạm đến các quyền hợp pháp của người bị buộc tội và tùy theo mức độ lỗi, lỗi cố ý hay vô ý dẫn đến xâm phạm quyền của người bị buộc tội và hậu quả của hành vi trái pháp luật do các chủ thể tiến hành tố tụng gây nên cản trở đến việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, cần phải xử lý kiên quyết, nghiêm minh, để nhằm góp phần giáo dục về nhận thức, ý thức trách nhiệm công vụ, nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong suốt quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

1. Suy đoán vô tội là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của nền tư pháp dân chủ, nhân đạo, là tiêu chí “phẩm giá của một nền tư pháp văn minh”, “nguyên tắc nền tảng của tố tụng hình sự ”. Đây là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân với nội dung cơ bản, xuyên suốt là không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra các yêu cầu chi phối toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong đó, quan trọng nhất là Tòa án, cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của pháp nhân, chủ thể duy nhất có quyền xác định một cá nhân và một pháp nhân có tội hay không có tội bằng bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nếu bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc này, sẽ có tác dụng định hướng cho những người có thẩm quyền tham gia tố tụng trong quan hệ với người bị buộc tội, loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thể hiện thái độ trân trọng tới quyền con người, sinh mệnh chính trị của họ, hạn chế những sai lầm thấp nhất có thể trong hoạt động tư pháp, làm oan người vô tội.

2. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, trong chương 4, tác giả đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sựở Việt Nam. Vấn đề cơ bản cần thực hiện là trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, các chủ thể có thẩm quyền buộc tội cần thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để chứng minh tội phạm một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội; khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Đồng thời, các chủ thể buộc tội cũng cần nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội.

KẾT LUẬN CHUNG

Tóm lại, thực hiện nghiên cứu đề tài Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện naytrong khuôn khổ luận án tiến sĩ luật học, cho phép rút ra những kết luận chung sau đây:

1. Suy đoán vô tội là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của nền tư pháp dân chủ, nhân đạo, là tiêu chí “phẩm giá của một nền tư pháp văn minh”, “nguyên tắc nền tảng của tố tụng hình sự”. Đây là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền con người với nội dung cơ bản, xuyên suốt là không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra các yêu cầu chi phối toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nếu bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc này, sẽ có tác dụng định hướng cho những người tham gia tố tụng trong quan hệ với người bị buộc tội, loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thể hiện thái độ trân trọng tới số phận con người, hạn chế những sai lầm trong hoạt động tư pháp, làm oan người vô tội.

2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là việc ghi nhận và thực thi những biện pháp, cách thức do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm thực hiện quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội cũng cần có những điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả mới có thể tạo cơ chế phát huy hết những điểm tiến bộ của nguyên tắc này.

3. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc suy đoán vô tội đã chính thức được khẳng định, thể chế hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tạo cơ sở quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trên thực tế cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm và rút kinh nghiệm, đặc biệt là yêu cầu về nhận thức và việc áp dụng nguyên tắc này trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng. Kể cả khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án vẫn có quyền được thực hiện suy đoán vô tội để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, bảo vệ sự thật và công lý. Cũng từ thực tiễn thực hiện cho thấy, quy định của Bộ luật tố

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022