năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt động THQCT bảo đảm QCN nói riêng. Vì vậy, khi được giao nhiệm vụ đã không nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, thực hiện không đầy đủ các thao tác nghiệp vụ; không tích cực chủ động trong hoạt động THQCT các vụ án hình sự để bảo đảm QCN. Thực tế cho thấy nhiều vụ án, Tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung không phải những vụ án quá khó về chứng cứ mà do KSV không thực hiện đúng, đầy đủ các quy định về quy chế THQCT và KSĐT hoặc không tuân theo những quy định của BLTTHS quy định. Nhiều KSV thiếu chủ động trong khâu công tác này, KSV không bám sát tiến độ điều tra vụ án, thụ động chờ kết quả điều tra của ĐTV. Do không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, không nắm được chứng cứ buộc tội, gỡ tội, những lời khai mâu thuẫn có trong hồ sơ… dẫn đến nhiều trường hợp vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc ngược lại nhiều trường hợp vụ án KSV còn quá cứng nhắc trong việc áp dụng pháp luật nhất là trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam. Có những vụ án mà bị can họ đủ điều kiện áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế biện pháp tạm giam nhưng lại không cho họ được hưởng như vậy ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của họ nhất là QCN trong tố tụng hình sự.
Thứ tư, các nguyên nhân khác
Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên, còn có những nguyên nhân khác ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động công tố của Viện kiểm sát ở tỉnh Hà giang, đó là:
- Thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát quyền con người của các cơ quan nhà nước và sự tham gia của nhân dân
- Các chế tài xử lý khi vi phạm quyền con người mặc dù được pháp luật quy định nhưng chưa cụ thể, rò ràng và nghiêm minh.
- Điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của VKSND tỉnh Hà Giang còn lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3.3. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát
3.3.1. Những quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con trong hoạt động công tố
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước ta. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối. chủ trương, chính sách lớn định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương, chính sách đó. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta có nhiều văn kiện quan trọng như Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII; Nghị quyết Trung ương 3 và 7 khóa VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đặc biệt Nghị quyết số 09/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã đề ra nhiệm vụ "Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người". Vấn đề này tiếp tục được đề cập đến tại Báo cáo Chính trị của hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tiếp theo là Đại hội X năm 2006 và Đại hội XI năm 2011. Các văn kiện của Đảng dù cách thức thể hiện khác nhau nhưng đều nhấn mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, hoạt động lập pháp luôn ưu tiên bảo đảm quyền con người, nhất là trong lĩnh vực TTHS,
nơi mà quyền con người dễ bị xâm phạm nhất. Quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người bằng pháp luật TTHS trong giai đoạn hiện nay như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Về Thủ Tục Các Hoạt Động Tố Tụng
- Khái Quát Về Tổ Chức, Bộ Máy Hoạt Động Của Viện Kiểm Sát Nhân Ở Dân Tỉnh Hà Giang
- Một Số Bất Cập Trong Về Đảm Bảo Quyền Con Người Trong Công Tác Thực Hành Quyền Công Tố Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh Hà Giang
- Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 14
- Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Trên cơ sở số liệu tại địa bàn tỉnh Hà Giang - 15
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Thứ nhất, bảo đảm quyền cong người bằng pháp luật TTHS phải đặt dưới sự lãnh đạo, giám sát chặt chẽ của Đảng, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai, kế thừa và phát triển những quy định hợp lý trong việc bảo đảm quyền con người, sửa đổi bổ sung những quy định chưa hợp lý, chưa sát với hoạt động thực tiễn TTHS, bỏ những nội dung, quy định không hợp lý, không còn phù hợp, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng với xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
Thứ ba, hoàn thiện mô hình TTHS theo hướng tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình TTHS tranh tụng, nâng cao chất lương tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ tư, quy định rò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan THTT, người THTT.
Thứ năm, quy định rò quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa cũng như người tham gia tố tụng khác.
Thứ sáu, tăng cường hoạt động giám sát đối với hoạt động của cơ quan THTT.
Thứ bảy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu đặt ra.
3.3.2. Hoàn thiện pháp luật
Pháp luật TTHS có vai trò và ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ QCN trong suốt những năm qua, đặc biệt từ khi chúng ta thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. BLTTHS năm 2003 ra đời đã phản ánh xu hướng đổi mới của hệ thống pháp luật bảo vệ QCN theo hướng dân chủ,
công khai, minh bạch góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, xây dựng xã hội dân chủ. BLTTHS 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền phát hiện nhanh chóng, kịp thời đối với mọi hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời quy định chặt chẽ các thủ tục tố tụng hạn chế tới mức tối đa sự lợi dụng của cơ quan THTT, người THTT xâm phạm QCN trong quá trình giải quyết vụ án.
Để bảo đảm QCN trong TTHS liên quan đến hoạt động công tố, trước hết cần phải hoàn thiện pháp luật TTHS hướng tới việc bảo vệ QCN. Trên cơ sở phân tích những bất cập của pháp luật hiện hành và hạn chế trong hoạt động công tố của VKS, tác giả luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật sau:
Thứ nhất, bổ sung một số nguyên tắc cơ bản của BLTTHS
- Nguyên tắc tranh tụng: Cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc của Luật TTHS Việt Nam. Việc xây dựng, ghi nhận nguyên tắc tranh tụng thành điều luật cụ thể trong BLTTHS có ý nghĩa là tư tưởng chủ đạo trong việc xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt là thủ tục tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trên nền tảng của tố tụng thẩm vấn, tiếp thu tối đa những điểm phù hợp của mô hình tố tụng tranh tụng hướng tới mục đích phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi tội phạm xử lý khách quan, công minh theo quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì cần phải bổ sung nguyên tắc: “Bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử và một số hoạt động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Tòa án ra bản án và quyết định”. Việc quy định nguyên tắc cơ bản này phù hợp với mô hình tố tụng đan xen, đồng thời phát huy được tính dân chủ, khách quan của quá trình giải quyết vụ án, hỗ trợ cho nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động TTHS. Mặt khác, nguyên tắc này còn có khả năng hạn chế sự lạm quyền của
Cơ quan THTT, người THTT xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng khi họ tiến hành tố tụng.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội: BLTTHS nước ta chưa quy định nguyên tắc này thành một điều luật riêng nhưng đã được đề cập tại Điều 10 "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng", Điều 9 "không ai bị có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Các nước phát triển trên thế giới ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp để thể hiện sự dân chủ của mình. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, cần ghi nhận nguyên tắc này trong BLTTHS bằng một điều luật riêng để xác định đây là những tư tưởng chủ đạo xây dựng, hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
- Nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo: nguyên tắc này chưa được quy định trong BLTTHS, nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự các cơ quan THTT đã vận dụng nguyên tắc này. Việc quy định nguyên tắc này trong BLTTHS là điều rất cần thiết góp phần đưa nguyên tắc này thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ áp dụng tùy nghi như hiện nay. Qua đó cũng thể hiện trình độ văn hóa pháp lý cũng như chính sách hình sự của một quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là quyền của bị can, bị cáo.
Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp ngăn chặn
- Về mục đích của biện pháp ngăn chặn
Điều 79 Bộ luật TTHS quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn với hai mục đích, đó là: (1) Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
(2) Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không
để người phạm tội có thể xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có yêu cầu của cơ quan THTT. Ngoài hai mục đích trên, biện pháp ngăn chặn không được áp dụng với bất kỳ mục đích nào khác nhất là đối với ý đồ xâm phạm QCN [6, tr. 64 - 80].
Tuy nhiên, trên thực tế, mục đích thứ (2) gần như tạo điều kiện cho các cơ quan THTT dễ lạm quyền khi áp dụng biện pháp ngăn chặn. Nhiều trường hợp chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh thì cơ quan tiến hành tố tụng lại áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Vì vậy, mục đích của biện pháp ngăn chặn chưa thực sự phù hợp với tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN.
Hoàn thiện quy định pháp luật về mục đích của biện pháp ngăn chặn, Bộ luật TTHS chỉ nên quy định mục đích của biện pháp ngăn chặn là: ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
- Về các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Điểm a khoản 1 Điều 88 BLTTHS quy định bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng là có thể bị tạm giam mà không cần căn cứ nào khác là bất hợp lý, không phù hợp với tư tưởng bảo đảm QCN trong tố tụng hình sự. Bởi lẽ:
- Bị can, bị cáo chưa phải là người có tội và biện pháp tạm giam không phải là hình phạt. Theo nguyên tắc suy đoán không có tội, một người chỉ bị coi là phạm tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bị can, bị cáo mới chỉ bị nghi thực hiện tội phạm nên chưa thể áp dụng đối với họ biện pháp trách nhiệm hình sự. Biện pháp cưỡng chế được áp dụng ở đây chỉ là biện pháp tố tụng nhằm mục đích không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm
tội, trốn hoặc cản trở quá trình tố tụng. Không thể suy luận một cách máy móc rằng một người đã phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiệm trong là có thể phạm tội tiếp, trốn tránh hoặc cản trở các hoạt động tố tụng để từ đó có thể bắt tạm giam.
- Quy định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam tại điểm a khoản 2 Điều 88 BLTTHS tạo ra khả năng tùy tiện trong áp dụng biện pháp tạm giam, biện phạm ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự nước ta, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo. Thực hiện tố tụng hình sự cho thấy đang tồn tại không ít những trường hợp các cơ quan THTT áp dụng biện pháp tạm giam để thuận tiện cho hoạt động tố tụng của mình mà không hề vi phạm pháp luật. Việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ thuận tiện cho hỏi cung của ĐTV, triệu tập của VKS, Tòa án mà không phải làm thủ tục triệu tập, không sợ bị can, bị cáo vắng mặt…
Do vậy, cần sửa đổi khoản 1 Điều 88 BLTTHS về căn cứ áp dụng tạm giam theo hướng tạm giam chỉ có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu có căn cứ cụ thể khẳng định rằng họ có thể tiếp tục phạm tội, có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Các căn cứ cụ thể này không thể là nhận định chung chung, mang yếu tố chủ quan của người có thẩm quyền áp dụng mà phải được chứng minh bằng các chứng cứ cụ thể, các đánh giá khách quan trên cơ sở tội phạm được thực hiện, hoàn cảnh khách quan của việc phạm tội, các yếu tố nhân thân của bị can, bị cáo. Với sửa đổi như vậy, quy định của Điều 88 BLTTHS mới phù hợp với Điều 79 BLTTHS, tránh được sự tùy tiện trong áp dụng biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự nước ta.
Thứ ba, cần sửa đổi BLTTHS theo hướng “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra”. Công tố gắn kết, chỉ đạo hoạt động điều tra chính là để thực hiện tốt
việc truy tố tội phạm, tranh tụng có chất lượng tại các phiên toà xét xử vụ án hình sự, nhằm tăng cường chống bỏ lọt tội phạm và hạn chế các trường hợp xảy ra oan, sai. Theo đó, VKS phải quyết định việc phân loại xử lý các tin báo, tố giác về tội phạm, trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; trực tiếp điều tra bất kỳ vụ án nào khi cần thiết; ra lệnh bắt, giam giữ thay cho việc phê chuẩn các quyết định đó của CQĐT như hiện nay; KSV chỉ đạo việc điều tra và quyết định kết thúc việc điều tra. Yêu cầu điều tra của KSV trong quá trình điều tra có giá trị bắt buộc đối với ĐTV, nếu không đồng ý thì vẫn phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị Viện trưởng VKS xem xét. Do đó, cần có những chế định, quy định bảo đảm vừa nâng cao tính chủ động của ĐTV vừa tạo cơ chế ràng buộc ĐTV thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu tố tụng điều tra của KSV.
Thứ tư, hoàn thiện các chế định chứng cứ và chứng minh trong TTHS. Mở rộng khái niệm chứng cứ, bổ sung thêm nguồn chứng cứ đặc biệt là những chứng cứ liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao; hoạt động thu thập chứng cứ cũng cần quy định trình tự đơn giản hơn, các cơ quan hữu quan nếu không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của các cơ quan THTT cần phải có chế tài cụ thể để xử phạt. Bổ sung nguyên tắc thu thập, đánh giá chứng cứ theo hướng tạo điều kiện cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền đưa ra chứng cứ, cho phép người bào chữa được quyền thu thập chứng cứ và những gì họ thu thập phản ánh đúng sự thật được các Cơ quan THTT xem xét, làm căn cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Bổ sung các quy định về thu thập, bảo quản xử lý và chuyển giao vật chứng giữa các Cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ năm, đổi mới việc THQCT tại các phiên toà xét xử theo hướng nâng cao tính độc lập, chủ động và trách nhiệm của KSV trong xét hỏi, luận tội, tranh tụng với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng