Phạm Vi Và Nội Dung Thực Hành Quyền Công Tố Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Xâm Phạm Sở Hữu


sơ vụ án hình sự sang tòa và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị.

Khái niệm THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữulà việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để buộc tội người đã thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu bị truy tố tại phiên tòa ở cấp xét xử thứ nhất, được thực hiện từ khi VKS chuyển bản cáo trạng cùng hồ sơ vụ án hình sự sang tòa và kết thúc khi Tòa án ra quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo kháng nghị

1.1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở

hữu.

Quan hệ sở hữu mà một trong những quan hệ xã hội giữa người với với

trong quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Quyền sở hữu xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật thông qua các hoạt động kinh tế. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhất là Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Các quyền này luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.

“Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi” [61, tr.5]. Các tội này được quy định tại Chương XIV của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, gồm 13 tội được quy định từ Điều 168 đến Điều 180, đó là các tội: Tội cướp tài sản (Điều 168), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), tội cướp giật tài sản (Điều 171), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177), tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178), tội


thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội đã chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm các tội có mục đích tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 168 đến Điều 177), trong đó cần phân biệt các tội có mục đích chiếm đoạt (Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều 171, Điều 172, Điều 173, Điều 174 và Điều 175) và các tội không có mục đích chiếm đoạt (Điều 176, Điều 177) và thứ hai là nhóm các tội không có mục đích tư lợi (gồm 03 tội Điều 178, Điều 179 và Điều 180).

Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, trước hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của nhóm tội này (căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm) như sau:

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - 4

- Về khách thể của tội phạm: Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [60, tr.78]. Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ ấy được gọi khách thể chung được quy định tại Điều 8 của BLHS, khách thể loại được quy định tại các chương phần các tội phạm cụ thể trong đó có quan hệ sở hữu được quy định tại Chương XVI. Theo quy định tại Điều 158 của BLDS thì quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Đối tượng tác động thuộc khách thể của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác (không phải là tài sản của người phạm tội) nhưng không phải cứ là tài sản thì là đối tượng tác động của tội xâm phạm sở hữu. Mà tài sản đó bị hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu tác động và qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu được luật hình sự bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản đó, trong sự chiếm hữu, quản lý của chủ sở hữu, người chiếm hữu hoặc người quản lý tài sản. Về nguyên tắc, các tài sản này phải là những tài sản hợp pháp của chủ sở hữu, bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản [Điều 105 Bộ luật dân sự].


- Về mặt khách quan của tội phạm: Các tội xâm phạm về sở hữu có sự khác nhau ở hình thức thể hiện hành vi, có thể thực hiện ở nhiều dạng khác nhau, các hành vi đó đều có cùng tính chất là gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Các hình thức thể hiện chủ yếu của tội xâm phạm sở hữu đó là: hành vi chiếm đoạt; chiếm giữ trái phép; sử dụng trái phép; hủy hoại, làm hư hỏng, mất mát, làm lãng phí tài sản.

Hậu quả của hành vi nói trên là những thiệt hại gây ra về quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất (tài sản bị mất). Đối với các tội: Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần).

- Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định, cụ thể: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 168, 170, 171, 173, 178 Bộ luật hình sự.

- Về mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện các tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là lỗi cố ý, người thực hiện hành vi muốn chiếm đoạt tài sản của người khác, biết tài sản muốn chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn muốn chiếm đoạt, biến tài sản đó thành tài sản của mình. Bên cạnh đó, vẫn có trường hợp phạm tội với với lỗi vô ý.

Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với các vụ án xâm phạm sở hữu tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần nắm vững những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, đặc điểm riêng biệt để phân biệt các tội phạm thuộc nhóm xâm phạm sở hữu trong quá trình xét hỏi, tranh luận để tránh được sự nhầm lẫn giữa các tội danh. Để làm được điều đó, quá trình xét hỏi, Kiểm sát viên cần làm rò các biểu hiện của hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội


gây ra, định giá tài sản, thiệt hại về tài sản, việc bồi thường thiệt hại, có tính chất chuyên nghiệp hay không,...

Biểu hiện của mục đích chiếm đoạt: Mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt. Tùy từng tội cụ thể, mục đích chiếm đoạt khác nhau có biểu hiện khác nhau, có thể xuất hiện trước, trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Đối với các tội có cấu thành hình thức thì mục đích chiếm đoạt thường xuất hiện trước hoặc trong khi thực hiện hành vi phạm tội. Đặc biệt, mục đích chiếm đoạt phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn thì người chiếm đoạt tài sản sẽ trở thành người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp mục đích chiếm đoạt có trước hoặc vào thời điểm nhận tài sản qua hợp đồng, còn mục đích xuất hiện sau khi nhận tài sản thì người chiếm đoạt phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Biểu hiện của hành vi chiếm đoạt: Hành vi làm cho người có quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện quyền sở hữu tài sản đó thì được coi là hành vi chiếm đoạt. Về bản chất, quá trình này không làm cho người có quyền sở hữu mất tài sản (về vật chất) mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu (về pháp lý). Để xác định hành vi chiếm đoạt có trái pháp luật hay không, cần phải xác định việc chiếm hữu đó có thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật dân sự hay không.

Việc xác định hành vi có tính chất chiếm đoạt đối với các tội có dấu hiệu chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của các tội xâm phạm quyền sở hữu một cách chính xác, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Tùy vào từng tội xâm phạm quyền sở hữu cụ thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Ngoài ra, khi xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc.

Việc nhận thức đúng các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu, cách phân loại giúp cho việc xác định đúng tội danh, tránh được sự nhầm


lẫn giữa các tội danh. Đặc biệt đối với Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi, tranh luận để chứng minh tội phạm tại phiên tòa được chính xác, bảo đảm xử lý đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.

1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

1.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

Mục đích của tố tụng hình sự đặt ra yêu cầu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định pháp luật. Về mặt nguyên tắc, quyền công tố phải được thực hiện khi có tội phạm xảy ra để chứng minh tội phạm, truy tố người phạm tội ra tòa án để xét xử. THQCT là một trong những quy định pháp lý để thực hiện quyền công tố, nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ về tội phạm như: tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác về tội phạm, khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng; lấy lời khai người bị tạm giữ, người làm chứng, người liên quan; khởi tố vụ án, bị can; ban hành cáo trạng, các hoạt động buộc tội tại phiên tòa. Đây là một trong những nội dung thực hành quyền công tố, nhưng không phải tất cả các vụ án đều được đưa ra xét xử trước Tòa án, nên phạm vi THQCT có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng sớm hơn khi có quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can. Điều này cho thấy, khi quyền công tố bị triệt tiêu thì việc THQCT không còn.

Như vậy, phạm vi THQCT bắt đầu từ khi giải quyết tin báo, tố giác tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố cho đến khi kết thúc vụ án bằng bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.

Phạm vi của THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu là bắt đầu khi VKS chuyển hồ sơ, bản cáo trạng sang Tòa án và kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định có hiệu lực không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu

THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là biểu hiện tập trung, rò nét nhất của quyền công tố, kể cả đối với các vụ án xâm phạm sở hữu. Tại phiên tòa, KSV


THQCT là đại diện VKSND thực hiện nhiệm vụ thay mặt quyền lực công (nhà nước) chính thức công bố công khai sự buộc tội của nhà nước đối với bị cáo, đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó trước HĐXX và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Hoạt động này chỉ được tiến hành bởi VKSND, là cơ quan duy nhất đại diện Nhà nước. Nhưng VKSND là tổ chức nên việc thông qua nhiệm vụ thực hiện buộc tội bị cáo tại phiên tòa không thể tất cả người của VKSND hoặc ai cũng được mà phải do VKSND quyết định cử (phân công) người đại diện cho tổ chức mình thực hiện nhiệm vụ ấy, đó chính là Kiểm sát viên. Để thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS quy định cho VKSND một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền chỉ có VKS mới thực hiện được, đó là công bố sự buộc tội bị cáo trước tòa bằng bản cáo trạng và bảo vệ cáo trạng bằng luận tội, do đó phải có KSV tham gia phiên tòa với vai trò là bên buộc tội.

Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS thì KSV THQCT tại phiên tòa bằng các hoạt động: Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút rọn, các quyết định khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án; Xét hỏi để làm rò tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án; Thực hiện việc luận tội; Tranh luận với bị cáo, bị hại, nhân chứng, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút rọn, các quyết định khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án;

Điều 306 BLTTHS quy định: “Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo” [35, tr 265].

Theo quy định tại Điều 23 Quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSND tối cao (gọi tắt là Quy chế 505) thì Kiểm sát viên phải đọc, công bố nguyên văn bản cáo trạng. Nguyên văn không có nghĩa là đọc toàn bộ dấu chấm, phẩy, nơi nhận của văn bản mà nguyên văn là nguyên văn nội dung. Nếu cáo


trạng nhiều trang, KSV cần phải nghiên cứu, phải đọc trước. Tại phiên tòa, khi công bố, KSV phải đứng thẳng, có khoảng nhìn lên, quan sát thái độ bị cáo, người tham dự phiên tòa, không được “chỉ nhìn vào văn bản”, giọng đọc cần rò ràng, mạch lạc, không ngọng, lắp, vấp và phải có điểm nhấn tại các phần như kết luận, quyết định; có ngắt câu, có thể bố trí lại dấu chấm, phẩy mà không làm mất đi hoặc sai lệch nội dung; đối với những từ ngữ la tinh, nước ngoài, chữ viết tắt cần phiên âm ra tiếng việt khi đọc, ví dụ: chất heroin = chất hê-rô-in; Methamfetamine = mê-tham-phê-ta- min; Công ty THHH = Công ty trách nhiệm hữu hạn …

Đối với vụ án có nhiều Kiểm sát viên THQCT tại phiên tòa thì cần có sự phân công cụ thể KSV công bố Bản cáo trạng, nên tự giới thiệu họ tên trước khi đọc và nói đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục làm việc khi đã công bố xong Cáo trạng. Sau khi công bố bản cáo trạng, KSV có thể trình bày ý kiến bổ sung nhưng chỉ để làm rò, bổ sung thêm nội dung của bản cáo trạng mà không làm thay đổi nội dung bản cáo trạng, không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Thực tiễn thấy rằng KSV thường phát biểu về các tình tiết, nội dung có lợi cho người bị buộc tội (bị cáo) như bị cáo đã bồi thường, đã hợp tác với cơ quan điều tra tố giác đồng phạm, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do chuyển biến chính sách pháp luật, nên hành vi của bị cáo phạm vào Điều luật nhẹ hơn…

- Xét hỏi để làm rò tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án;

Khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu, Kiểm sát viên kiểm chứng, chứng minh sự buộc tội của VKS bằng việc xét hỏi bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người giám định; xem xét, đối chiếu tài liệu của các cơ quan chuyên môn, xem xét vật chứng...để bảo đảm rằng sự buộc tội là có căn cứ, các chứng cứ được thu thập ở các giai đoạn trước đó là hợp pháp, khách quan và có liên quan đến vụ án nên cần phải được kiểm chứng công khai để chứng minh tại Tòa án là đúng với nội dung bản cáo trạng đã truy tố; đảm bảo các hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.


Xét hỏi của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là việc KSV trực tiếp xét hỏi bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nhận xét và hỏi thêm những vấn đề có liên quan để xem xét, đánh giá chứng cứ; các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo các Điều 307, 308, 309, 310, 311, 312, 313, 314, 315, 316, 317, 318 BLTTHS năm

2015.

Phạm vi xét hỏi của KSV đối với những người nêu trên bao gồm mọi khía cạnh liên quan đến vụ án, đó là: Những chứng cứ, tình tiết xác định có tội và vô tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân thân bị cáo, nguyên nhân và điều kiện phạm tội... đặc biệt, KSV cần chú ý hỏi để làm rò những dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt các tội danh thuộc nhóm xâm phạm sở hữu ví dụ như cần làm rò dấu hiệu đe dọa dùng vũ lực thì trong điều kiện hoàn cảnh đó có diễn ra ngay tức khắc không, có làm bị hại tê liệt ý chí kháng cự không để phân định giữa tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản hoặc để làm rò thủ đoạn gian dối của bị cáo có trước hay sau khi nhận tài sản để phân định giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc ngay sau khi trộm tài sản mà bị phát hiện thì người phạm tội đã có hành vi chống trả người bắt giữ, khi đó cần làm rò mục đích chống trả làm nhằm tẩu thoát hay nhằm chiếm đoạt tài sản để phân định có việc chuyển hóa tội danh từ trộm cắp tài sản thành tội cướp hay không … Kết quả xét hỏi là cơ sở để HĐXX, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự xác định đủ căn cứ để kết tội bị cáo hay không. Nếu có thì bị cáo phạm tội gì, theo quy định tại khoản, điều nào của Bộ luật hình sự, hình phạt nào áp dụng đối với bị cáo, có thể áp dụng biện pháp tư pháp cũng như buộc bị cáo và người có liên quan bồi thường cho bị hại hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Sau khi xét hỏi, nếu việc buộc tội có căn cứ thì Kiểm sát viên bảo vệ cáo trạng bằng luận tội; nếu việc buộc tội không chính xác tội danh thì tùy trường hợp mà thay đổi tội danh bằng hoặc nhẹ hơn hoặc đề nghị Hội đồng xét xử trả hồ sơ để

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí