Xu Hướng Chi Tiêu Cá Nhân Của Người Tiêu Dùng Việt Nam

vị trí khu vực có mức tiêu dùng lớn thứ 3 trong tổng số 6 khu vực trên thế giới đứng sau Châu Âu và Mỹ, đạt mức 16,1%. Như vậy, có thể thẩy rằng tiêu dùng ở các nước Châu Á đang ngày càng gia tăng và đây là một trong những thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn phân phối hàng hóa lớn trên thế giới. Một đặc điểm chung của các nước Châu Á là hệ thống phân phối hàng hóa còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình, quy mô nhỏ, hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên theo kiểu mua đứt bán đoạn. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Điều này lại càng thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo quy mô lớn để thu hút lượng khách hàng phân tán trên thị trường. Tuy nhiên tại Châu Á, thời gian qua có một số nước bất ổn về tình hình chính trị do bạo loạn, khủng bố nên đã ảnh hưởng không ít đến hoạt động đầu tư. Hiện nay, Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư thế giới vì tình hình chính trị ổn định, môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư cũng đã tương đối hoàn chỉnh, cùng với việc nền kinh tế Trung Quốc phát triển quá nóng khiến các nhà đầu tư tìm hướng đầu tư vào Việt Nam càng tăng.

3.1.1.1.2. Xu hướng chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam

Trước hết, đó là xu hướng gia tăng nhanh chóng trong chi tiêu cá

nhân của người tiêu dùng Việt Nam. Trong những năm qua, sự gia tăng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, hứa hẹn những tiềm năng rất lớn cho sự phát triển của thị trường phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì mức chi tiêu cá nhân bình quân của người tiêu dùng Việt Nam năm 2006 là 511.000 đồng/tháng/người, cao gấp gần 3 lần so với năm 2000. Hơn nữa trong quỹ tiêu dùng cuối cùng, mức bán lẻ hàng hóa tăng lên qua các năm. Nếu giai đoạn 1996-2000 thương mại bán lẻ hàng hóa chiếm 66,15% quỹ tiêu dùng cuối cùng

thì giai đoạn 2001-2005 tỉ lệ tương ứng là 76,74%. Dự báo giai đoạn 2006- 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa chiếm khoảng 80% quỹ tiêu dùng cuối cùng.

Hơn nữa, tỉ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam đạt khoảng trên 70%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực như Singapore 55,9%, Malaysia 58,2%, Thái Lan 67,7%... cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gia tăng mạnh trong tiêu dùng trong nước của Việt Nam. [35]

Thứ hai là xu hướng thay đổi trong cách thức mua sắm của

người tiêu dùng Việt Nam.Sự thay đổi này diễn ra khá mạnh ở Việt Nam trong những năm qua và đang cho thấy xu hướng chuyển dịch mạnh từ việc mua sắm trong các khu chợ truyền thống sang các siêu thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong một cuộc điều tra mới đây được thực hiện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có tới 70% người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và 20% ở Hà Nội cho rằng họ thích mua sắm ở các siêu thị hơn là ở các khu chợ truyền thống ngoài trời. Theo dự đoán, trong mười năm tới, con số này có thể tăng lên tương ứng là 90% ở Thành phố Hồ Chí Minh và 50% ở Hà Nội. Điều này cho thấy sự thay đổi khá nhanh và mạnh trong cách thức của người dân Việt Nam đối với việc mua sắm hàng hoá. [36]

3.1.1.1.3. Cam kết và việc thực hiện cam kết

Nhận thức được xu thế khách quan của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi hệ thống XHCN tan rã (1991), trong gần 20 năm qua, Đảng và Chính phủ đã nhất quán trong việc thực hiện phương châm hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu hơn và chủ động hơn. Để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả và chủ động, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, kết hợp đàm phán thương mại để gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế với cải cách trong nước.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Về các quan hệ song phương, đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 160 quốc nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40

hiệp định chống đánh thuế hai lần, có thoả thuận đối xử Tối huệ quốc 81 quốc gia. Một số hiệp định quan trọng như Hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (1991), Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (1992), Hiệp định khung với Liên minh châu âu (EU) (1992), Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định hợp tác đầu tư với Nhật Bản (2003)… Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ phân phối bán lẻ theo lộ trình cam kết WTO - 10

Về các quan hệ đa phương toàn cầu và khu vực, Việt Nam đã khai thông và nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) (1993); gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) năm 2001.

Việt Nam đã kết thúc thành công 14 phiên đàm phán đa phương và song phương với 28 nước thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức được phê chuẩn để trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, mở ra những cơ hội to lớn đối với phát triển kinh tế nước ta.

Với việc hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế mở cửa thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa. Cam kết quốc tế về mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam bao gồm các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ASEAN+ (ASEAN với các đối tác) và cam kết trong khuôn khổ WTO.

Dịch vụ phân phối hiện nay đã được mở cửa cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Nhật Bản (theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản). Với việc

gia nhập WTO, dịch vụ phân phối của Việt Nam đã được tiếp tục mở cửa cho các nước thành viên khác. Từ 01/01/2009, Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ 100% vốn đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các mặt hàng. Ngoài sự mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp FDI trong nước, theo bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ có một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam, trong số đó có Wal-Mart - nhà bán lẻ hàng đầu thế giới, Carrefoul - nhà bán lẻ lớn thứ hai thế giới và Tesco - tập đoàn bán lẻ đứng thứ 6 thế giới. cũng đã đưa Việt Nam vào kế hoạch mở rộng các thị trường trọng điểm trong thời gian tới.

Hệ thống phân phối hàng hóa tại Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân phối truyền thống với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải rác khắp các địa phương. Tuy nhiên, với việc hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, tại thị trường Việt Nam đã xuất hiện các hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại với các siêu thị như Co.opMart, MaxiMark... và các trung tâm bán buôn, bán lẻ lớn của các nhà đầu tư nước ngoài như Metro, BigC... Điều này đã dần dần tạo nên những thay đổi trong thói quen mua sắm của dân cư, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Nhịp sống trong các gia đình trẻ dần dần được thay đổi bởi thói quen cuối tuần đi siêu thị mua đồ dùng cho cả gia đình trong cả một tuần. Thêm nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh, sự đa dạng hàng hóa, giá cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm... đã nghiêng cán cân lợi thế về phía hệ thống phân phối hiện đại.

Như vậy, với việc thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống phân phối trong nước ngày càng đa dạng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Lĩnh vực phân phối bán lẻ của nước ta sẽ có cơ hội trở thành một ngành công nghiệp bán lẻ tiên tiến theo kịp với xu hướng chung của khu vực và thế giới.

3.1.1.2. Hạn chế

3.1.1.2.1. Cơ sở hạ tầng yếu kém

Sự khan hiếm mặt bằng kinh doanh là một trở ngại đối với việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ. Ở nước ta hiện nay, hầu hết các mặt bằng hiện hữu không đạt tiêu chuẩn quốc tế và để đảm bảo chỗ đứng cho mình, nhiều nhà kinh doanh bán lẻ quốc tế đã phải chọn giải pháp cải tạo lại các cửa hàng mặt tiền trong khi chờ đợi những mặt bằng có chất lượng tốt hơn. Do thiếu mặt bằng nên giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40 USD/m2/tháng vào cuối quí III năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200 USD/m2/tháng. [27, tr.107]

Hiện nay công suất thuê mặt bằng tại các thành phố lớn nước ta đều đạt trên 95% và nhu cầu thuê mặt bằng đang tăng mạnh. Có nhiều trung tâm thương mại đến nay vẫn đang trong quá trình xây dựng nhưng các nhà kinh doanh cũng đã đăng ký thuê kín chỗ.

3.1.1.2.2. Phong cách tiêu dùng của người dân vẫn mang nặng tính truyền

thống

Phần lớn dân cư nước ta vẫn chưa thích ứng được với các mô hình mua sắm hiện đại. Vì vậy, ở trong nước, dù những tập đoàn bán lẻ lớn như Big C, Metro đang kinh doanh rất thành công, thì hệ thống phân phối truyền thống gồm hơn 9.000 chợ vẫn đang hoạt động hiệu quả và thu hút một lượng lớn dân cư thuộc mọi tầng lớp, đặc biệt là những người có mức thu nhập trung bình, thấp và những người hưu trí. Những người tiêu dùng trong nước hàng ngày vẫn tiếp cận với những nguồn hàng hoá tại chợ gần với nơi họ sinh sống hoặc tại các cửa hàng ven đường. Điều đó cho thấy, mặc dù nhu cầu ngày một gia tăng, nhưng điều đó chưa đủ để có thể thay đổi tập quán, thói quen tiêu dùng.

Hiện tại, thị phần bán lẻ qua các kênh phân phối hàng hóa ở Việt Nam về cơ bản được phân chia như sau: qua các hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi... khoảng 10%; qua hệ thống

chợ truyền thống khoảng 40%; qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập khoảng 44%; còn lại khoảng 6% là do các nhà sản xuất trực tiếp phân phối sản phẩm của mình (xem Biểu đồ 4). [2]


Loại hình phân phối

Bán trực tiếp 6%

Siêu thị 10%

Chợ truyền thống 40%

Cửa hàng tạp hoá 44%

Biểu đồ 6: Các loại hình phân phối bán lẻ của Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2008

Nguồn: Bộ công thương

Người Việt Nam vốn quá quen với văn hóa chợ và cửa hàng tạp hóa nên để người tiêu dùng có thể thay đổi hành vi mua sắm ở các cửa hàng bán lẻ hiện đại, họ cần thời gian thích nghi. Yếu tố này thường dễ làm các nhà đầu tư nản lòng.

3.1.1.2.3. Mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất trong nước và các nhà bán lẻ

nước ngoài

Các doanh nghiệp bán lẻ vào Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp phân phối hàng tiêu dùng, khá quan tâm đến nguồn cung hàng hóa trong nước. Đa phần các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của thị trường, chẳng hạn với hàng may mặc thì nhà sản xuất phải có nhiều bộ siêu tập trong năm, các yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật phải đảm bảo, đồng thời phải giao hàng đúng thời hạn, giá cả được trả theo đúng thỏa thuận hai bên đã cam kết. Song sản xuất của chúng ta quy mô nhỏ nên đôi khi không thể hoàn thành đơn hàng đúng

thời hạn, chất lượng sản phẩm không đúng theo yêu cầu và dẫn đến tình trạng có những nhà sản xuất đưa tiền cho nhân viên siêu thị để được có mặt trong hệ thống của họ. Đặc biệt về hàng hóa thời trang như may mặc, giày dép, mặc dù chúng ta có thể xuất khẩu nhưng hầu hết vẫn phải nhường chỗ cho thương hiệu nước ngoài trong những trung tâm mua sắm sang trọng như Parkson, Zen Plaza…

Hơn nữa, đối với các nhà phân phối lớn như Metro, Walmart… thì họ cần một lượng hàng hóa tập trung mà chỉ có những doanh nghiệp sản xuất lớn mới có thể có khả năng đáp ứng những điều kiện của họ. Còn những nhà sản xuất nhỏ yếu về kinh nghiệm, tài chính, nguồn lực thì khó có thể cạnh tranh để có được một vị trí tốt trên những quầy kệ, siêu thị của hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại này.

3.1.1.2.4. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước

hạn chế

Gia nhập WTO và mở cửa thị trường là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là những lĩnh vực đã được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ đến thời điểm hiện nay. Vì được bảo hộ nên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này rất yếu kém và nếu không kịp thời đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh thì rất dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất và kinh doanh và dẫn tới phá sản là điều khó tránh khỏi. Phân phối bán lẻ là lĩnh vực tác động không chỉ đến tiêu dùng mà còn đến cả sản xuất. Nếu các doanh nghiệp trong nước không đứng vững được trên thị trường nước nhà thì nguy cơ bị các tập đoàn bán lẻ nước ngoài lũng đoạn thị trường là điều khó tránh khỏi. Vì thế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam là một bài toán khó của tiến trình mở cửa thị trường. Nếu doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn mạnh để phân chia thị phần với các doanh nghiệp nước ngoài thì lợi ích cho việc mở cửa thị trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phân phối bán lẻ là không nhỏ. Do đó để có thể tăng

cường thu hút FDI vào lĩnh vực này thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp là điều khá cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

3.1.2. Dự báo phát triển ngành dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam theo lộ trình cam kết WTO

Có thể đánh giá, ngành dịch vụ phân phối ở nước ta trong thời gian tới sẽ phát triển theo hướng sau:

- Các rào cản về việc gia nhập và rút khỏi hệ thống phân phối sẽ dần được loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế (WTO, BTA, Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt - Nhật, ASEAN+) và các cải cách của chính phủ nhằm tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài.

- Sự thâm nhập ngày càng nhiều các Tập đoàn phân phối đa quốc gia trên thị trường Việt Nam, ngoài Big C, Metro Cash & Carry, Cora; nhiều khả năng sẽ có thêm Wal-mart của Mỹ, Carrefour của Pháp, các tập đoàn phân phối của Nhật, Trung Quốc... tạo nên một bức tranh đa dạng trong hệ thống phân phối trong nước. Hệ thống phân phối không còn là mảnh đất đặc quyền của các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp trong nước phải động não chủ động tham gia nếu không muốn bị loại “ra rìa”

- Quá trình tích tụ và tập trung sẽ diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà phân phối trong nước tạo thành các chuỗi liên kết với các nhà sản xuất, các ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh (đại lý phân phối độc quyền cho thương hiệu Việt Nam, đặt các điểm giao dịch, máy ATM tại các siêu thị, chợ...). Một số nhà phân phối có tiềm lực sẽ mở rộng hoạt động phân phối ra nước ngoài thông qua liên doanh, liên kết với các tập đoàn phân phối nước ngoài hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Lực lượng người Việt Nam kinh doanh ở Nga và các nước Đông Âu cũng sẽ trở thành những mắt xích quan trọng trong hệ thống dây phân phối hàng “made in Viet Nam” nhưng mang thương hiệu quốc tế thay vì

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 12/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí