Hình Tượng Người Trí Thức Trước Vòng Xoáy Của Cơ Chế Thị Trường


Nhắm với hành tươi chuối xanh

Hình ảnh ông Vọng có gì giống với hình ảnh Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Họ đều chan chứa tình thương, sáng ngời nhân cách, sẵn sàng hi sinh tư lợi cá nhân cho người khác. Nhưng ở đây, có lẽ ông Vọng sung sướng hơn Lão Hạc, ông không hề vướng bận riêng tư, không bị đẩy vào bi kịch, mà luôn cháy bỏng trong mình ước mong tốt lành về một tương lai phía trước:

Có đêm ông vừa thiếp ngủ

Cá tôm chạy chốn phương nào Ông bỗng thấy mình rực sáng Vục lên cả một trời sao

(Ông Vọng)

Cuộc đời của bá Kim và ông Vọng dù sao cũng là nốt nhạc vui hiếm hoi trong dàn đồng ca trầm buồn của bản hợp xướng về cuộc đời người nông dân trong thơ Trần Nhuận Minh.

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, qua bức chân dung về số phận người nông dân lao động, chúng ta rơi lệ vì tâm niệm sâu thẳm của nhà thơ: “Tôi viết về nỗi đau của con người”. Hình tượng những con người bé nhỏ như “Hoa cỏ” giữa thảo nguyên mênh mông được nhà thơ trân trọng, cung kính: “Tôi chắp tay trước màu xanh muôn thuở…”. Cái chắp tay ấy là bản lĩnh và niềm vui vĩnh cửu của Trần Nhuận Minh và người yêu thơ.

Cách xây dựng hình tượng nhân vật cho ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ. Việc khai thác số phận người nông dân lao động ở nhiều chiều, nhiều hướng, nhiều góc cạnh đã cho thấy cái nhìn cuộc sống và con người trong thơ Trần Nhuận Minh đạt đến độ sâu sắc, đầy chiêm nghiệm đúc kết của một nhà thơ từng trải. Có trách nhiệm với ngòi bút, sống và viết hết mình, thật mình, luôn trăn trở, băn khoăn cho số phận người lao động (người công nhân và người nông dân). Dường như chưa bao giờ nhà thơ lo âu, suy nghĩ nhiều cho


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

kiếp người như lúc này, nhưng chưa bao giờ Trần Nhuận Minh mất đi niềm tin và không thôi khát vọng về con người với bao điều tốt đẹp.

Với dung lượng câu chữ ngắn gọn trong thơ, Trần Nhuận Minh đã dựng lên được những bức chân dung sinh động về con người lao động, đó là kết quả của sự trải đời, hiểu người, yêu người và thương người biết bao của “nhà thơ và hoa cỏ” này. Thế giới hình tượng nhân vật của Trần Nhuận Minh - thế giới của những mảnh đời phức hợp.

Thơ Trần Nhuận Minh - 8

2.1.3. Hình tượng người lao động nghệ thuật

Là người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật, nên Trần Nhuận Minh có một sự hiểu biết và đồng cảm đặc biệt tới hoàn cảnh, số phận của các nhà văn, nhà thơ tự cổ chí kim.

Cuộc đời con người là một “lát cắt” trong quy luật vận hành của tự nhiên. Số phận của văn nghệ sĩ thời phong kiến trong thơ Trần Nhuận Minh thường gặp nhiều bất hạnh vì định mệnh, bất hạnh vì dòng xoáy thế cuộc xô đẩy, và vì chính sự tài hoa nhất bậc của mình. Bởi lẽ, xã hội phong kiến mà họ sống và phụng sự ấy vốn không trân trọng, không muốn dung nạp những người tài trí, tâm sáng như sao Khuê đó; vì ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của lòng nhân ái của họ có thể còn làm lu mờ cả thứ ánh sáng nơi điện vàng cung ngọc.

Danh nhân Nguyễn Trãi lúc sinh thời từng được suy tôn “vi thần”, có tài thao lược “kinh bang tế thế”, “viết thư thảo hịch có sức mạnh như mười vạn hùng binh”, góp phần quan trọng vào việc đánh thắng giặc Minh, khôi phục giang sơn; một con người luôn có tư tưởng tiến bộ, thân dân, cận dân, lấy dân làm gốc: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, một anh hùng văn võ toàn tài: “Bóng Ức trai đi, động gió bốn phương trời” thế mà lại bị rơi vào nỗi oan khiên thảm khốc, phải rơi đầu trong vụ án Lệ Chi Viên:

Cụ Nguyễn Trãi ôm chăn ngồi trước mũi thuyền Gió buốt thổi sau lưng

Sông Kinh Thầy cuồn cuộn đỏ chảy về Đông


Cửa Bạch Đằng nước triều dâng tới sáng Cùng với mặt trời lên

Câu thơ phải rơi đầu.

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Không phải chịu một kết cục bi thảm như danh nhân Nguyễn Trãi, thi hào Nguyễn Du cũng phải đối mặt với một xã hội phi nhân tính và sống trong thời đại thấy “toàn nước mắt” và nghe được những “tiếng kêu đứt ruột” của con người , nên ông suốt đời trân trọng, cảm thương cho những vẻ đẹp của thế gian và luôn cúi xuống nỗi đau của nhân loại, nhưng lại bất lực trước xã hội đầy bất công. Trang thơ nào của ông đọc lên cũng có thể khiến ta rơi lệ bởi những kiếp người bị vùi dập tàn nhẫn. Số phận Nguyễn Du cũng không tránh khỏi cái án của “thiên mệnh” như bao con người tài hoa bạc phận khác: “Cõi đời đâu cũng long đong/Văn chương bạc phận, má hồng vô duyên”(Nguyễn Du). Ớn lạnh trước “chính trường sấp mặt, đồng tiền xoay ngang”, Nguyễn Du đã chủ động đoạn tuyệt cuộc sống để được hòa mình vào với thập loại chúng sinh:

Cụ Nguyễn Du không chịu uống thuốc Sờ xem ta chết đến đâu rồi

Ừ. Được

Cụ nói thế và đi

Lẫn trong thập loại chúng sinh

( 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Viết về hai nhà thơ lỗi lạc, hai đại diện tiêu biểu cho những người lao động nghệ thuật của dân tộc có cuộc đời nhiều tai ương, bất trắc, và đầy bi kịch, Trần Nhuận Minh thể hiện rõ sự ngưỡng mộ, trân trọng, và đầy thương tiếc, đớn đau cho số phận của những bậc thiên tài.

Trong thơ, ông còn nhắc tới Lão Xá – một nhà thơ Trung Quốc tài hoa nhưng lại phải đón nhận một bi kịch đau đớn, kinh hoàng bởi cuộc Cách mạng Văn hóa đã quy kết và xử lí ông một cách tàn nhẫn: “Lũ trẻ con từng rút lưng da


có móc sắt quất chéo vào mặt Ông/Hả hê lôi xác Ông lên phơi nắng”. Nhưng rồi cuối cùng ông cũng đã được nhân dân chiêu tuyết,và mãi bất tử cùng với kiệt tác của mình:

Văn chương lỗi lạc một thời Bể dâu đến thế thì thôi còn gì

Chúng đốt Tường Lạc Đà của ông

Nhưng nó mãi mãi vẫn là một trang kiệt tác

Nhân dân Trung Hoa nhờ những kiệt tác ấy mà bất tử.

(Lão Xá)

Cũng rơi vào bi kịch đau lòng không kém, Khuất Nguyên, một nhà thơ lớn của Trung Quốc cổ đại, đã nhẩy xuống sông Mịch La tự vẫn, để trốn chạy cuộc đời đầy bất công và lòng người đầy hiểm ác, nhưng cái chết lại đưa nhà thơ vào thế giới không khác gì thế giới mà ông đang sống. Ở đây,Trần Nhuận Minh đã có cái nhìn “giải cổ tích” về cuộc đời, về số phận của nhà thơ Khuất Nguyên qua chuỗi “bi kịch liên hoàn” nhằm lí giải một hiện thực đen tối của triều đại phong kiến Trung Quốc mà Khuất Nguyên đã sống:

Khuất Nguyên

Chê cuộc đời quá đục Chọn chỗ nước trong để trẫm mình Tiếc thay!

Con cá lớn nuốt Ông Trong bụng cá

Thức ăn đã thối rữa…

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Còn với hình tượng nhà thơ Êxênin – niềm tự hào của nước Nga một thuở, cái chết đầy bi kịch của ông mãi vẫn là nỗi niềm day dứt cho những nhà thơ như Trần Nhuận Minh:

Môi dập máu những câu thơ trong trẻo


Đến bây giờ, còn day dứt lòng nhau

(Đến làng Kôn xtan tinôvô quê hương thi hào Nga Xergây Êxênin)

Và đây là hình tượng nhà văn nước Nga Lep-Tônxtôi hiện lên giữa đối cực của hai bờ hư – thực. “Bộ óc khổng lồ” sản sinh ra những kiệt tác bất hủ, mà trong đó kết tụ hình ảnh một trái tim vĩ đại đập cùng nhịp đập với nhân dân Nga. Đến lúc vĩnh biệt cõi đời, thân xác cũng lại trở về với cát bụi, nấm mộ ông cô đơn bên cạnh hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình:

Những tác phẩm thiên tài

Vượt ra ngoài

Các giới hạn

Đấng Tạo Hóa nằm đây

Nhỏ bé cô đơn

Bên gốc một cây sồi

(Trước mộ Đại văn hào Lep-Tônxtôi)

Cuộc đời con người luôn hữu hạn trước cái vô hạn của dòng chảy thời gian. Chỉ có thơ ca là tài sản tinh thần có sức lan tỏa, tồn tại vĩnh cửu. Lầu Hoàng Hạc sẽ chẳng còn gạch nối của một thời vàng son nếu không có bàn tay Thôi Hiệu đề thơ trên đó. “Người thơ” giờ đã đi xa, nhưng di tích thì còn đó, và đang bị biến dạng bởi sự can thiệp của bàn tay con người thời hiện đại, và bị thương mại hóa, đã khiến cho Trần Nhuận Minh cũng cảm thấy se xót, thương cảm, bàng hoàng:

Sau một ngàn hai trăm bốn mươi nhăm năm, Thôi Hiệu làm sao hình dung được

Có một nhà thơ từ tận phương Nam,

đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông mà thương cảm bàng hoàng

(Mây trắng)


Tất cả các văn nghệ sĩ trong thơ Trần Nhuận Minh ở những thời đại trước, ở mỗi dân tộc đều là những thiên tài. Họ sống trên cõi đời phải đối mặt với hiện thực tàn nhẫn, những ngổn ngang, oan trái của thế thái nhân tình, thậm chí có người phải gánh chịu một bi kịch thảm khốc, một nỗi oan khôn nguôi của thời đại, khiến cho lịch sử không bao giờ lãng quên. Nhưng họ đã trở thành bất tử khi những kiệt tác của mình vượt thời gian để tồn tại vĩnh hằng. Họ được phục sinh trong nỗi ám ảnh, sự ngưỡng mộ của hậu thế như một niềm tri ân thành kính, nhưng cũng để lại bao nhức nhối, bao xót xa trong trái tim của những người lao động nghệ thuật đích thực này.

Không chỉ thấu hiểu và cảm kích trước các bậc tiền nhân, Trần Nhuận Minh còn thấu hiểu, còn giành cả tình cảm yêu thương, quý trọng và sự đánh giá đúng vai trò của người lao động nghệ thuật ngày nay.

Những người lao động nghệ thuật (trong đó có những nhà văn, nhà thơ) đều là những người đang phải đối mặt với bao vất vả, khó khăn chồng chất. Họ vừa phải lao động kiếm sống như bao người khác, lại vừa phải ra sức sáng tạo những tác phẩm văn chương có giá trị đích thực! Vì vậy, họ phải hai lần vất vả, hai lần đổ mồ hôi, công sức, trí tuệ, tình cảm để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình.

Với nhà văn Võ Huy Tâm, anh lấy đời người thợ để tìm cảm hứng sáng tác cho đời mình. Anh chấp nhận dấn thân vào con đường lao động cật lực mong có thể vượt ra ngoài khả năng bẩm sinh sáng tác, nhằm đưa những tác phẩm nghệ thuật của mình đến đỉnh cao hơn, có nhiều sáng tạo hơn:

Không vào rừng thì đói Nhà văn lại cười xòa Mà văn chương lại phải Vươn lên những tầm xa

(Tinh chất)


Còn nhà thơ Thanh Tùng, trước khi đến với thơ, anh là một người thợ. Cho nên, ở anh - một con người đảm nhiệm hai thiên chức, vừa lao động chân tay: “Bạn làm nghề áp tải/Đường bộ và đường sông”, vừa sáng tạo nghệ thuật: “Thơ trong đầu nổi loạn/Mà chẳng nên bài nào”. Hai lĩnh vực khác nhau nhưng lại gắn bó hữu cơ trong một con người để hình thành nên bức chân dung đầy ý nghĩa: Nhà thơ áp tải:

Đất nước có một thời Kẻ gian nhiều như nấm

Không ngờ một nhà thơ Lại sống bằng… nấm đấm.

(Nhà thơ áp tải)

Những người lao động nghệ thuật luôn có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp của chính mình. Họ muốn để lại cho đời những những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa, nên cho dù vất vả, cho dù hiểm nguy, họ vẫn vượt qua hoàn cảnh, vượt qua chính mình để có thể hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của một nhà thơ quyết: “áp tải sự thật/đến những bến cuối cùng”

Viết về văn nghệ sĩ cùng thời, Trần Nhuận Minh đã dựng lên bức chân dung đời thường của họ rất chân thực và vô cùng xúc động. Mặc dù hiện tại, “cơm áo không đùa với khách thơ”, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, xã hội vẫn tồn tại những khiếm khuyết, những bất cập nhất định, nhưng họ vẫn miệt mài lao động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật bằng cái tâm, cái tài, bằng niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào tương lai tốt đẹp.

2.1.4. Hình tượng người trí thức trước vòng xoáy của cơ chế thị trường

Sau năm 1985, xã hội có nhiều thay đổi mạnh mẽ, không ít người trở nên hoang mang hoài nghi trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của một số giá trị và chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Điều đó tác động mạnh mẽ đến quan niệm thẩm mĩ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.


Tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy xuất hiện hình tượng người trí thức được phản ánh ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà thơ đã quy tụ những gương mặt ở mọi góc độ, mọi hoàn cảnh để dựng lên bức chân dung đời thường, sống động. Họ là tầng lớp trí thức, tầng lớp cấp tiến trong xã hội, nhưng chính xã hội của nền kinh tế thị trường như một guồng xoáy đã xô đẩy họ vào mọi ngả của lối rẽ. Là chứng nhân của thời kì mở cửa, bên cạnh những biến động tích cực của đất nước, thì vẫn còn những bất ổn, những tiêu cực tồn tại và nẩy sinh, cho nên, Trần Nhuận Minh luôn nhạy cảm, xót xa, đau đớn trước sự băng hoại môi trường và nhân cách con người nhất là những người trí thức – những người có học, có văn hóa nhất trong xã hội.

Hình ảnh một cô Bổng đã từng đứng trên bục giảng, mang dấu ấn một thời được xã hội vinh danh, được đồng nghiệp tín nhiệm: “Bầu cô đi dự đại hội trên”, còn khi: “Về hưu cô dược dân cử/Thắp nhang và quét sân đền”. Cũng vì ý nghĩa của cuộc sống mà nửa cuộc đời lúc trước, khi còn thời bao cấp, kinh tế khó khăn, cô Bổng vẫn gắn bó say mê với nghề dạy học. Nay được tự do tín ngưỡng, cô lao vào “kinh doanh” nghề mê tín dị đoan để thu nhập cá nhân nơi cửa đền. Trước đây, cũng chiếc cặp này vẫn đựng những trang giáo án, còn “bây giờ thấy thẻ với bùa”. Đồng hành với nền kinh tế xã hội đi lên là bước thụt lùi của nét thuần phong mĩ tục. Con người đang có nguy cơ biến dạng lối sống bởi ngoại cảnh.

Người trí thức nhiều khi cũng không cưỡng nổi trước sức lôi kéo mãnh liệt của đồng tiền. Đồng tiền trong nền kinh tế thị trường có một ma lực đáng sợ, nó thúc đẩy con người phải sống, phải làm việc tận lực, nó cũng đem đến bi kịch cho con người đang ngùn ngụt khát vọng đổi đời bằng mọi giá và cũng phải trả giá quá đắt:

Sự đời bác đến thế thì

Đã làm ông giáo còn đi buôn nhà Sớm mai bác phải ra tòa

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/10/2023