Cuộc Sống Đa Chiều Và Số Phận Con Người Trong Truyện Ngắn Thế Sự Của Vò Thị Hảo


đường đời. Một con người có tình yêu cháy bỏng với văn chương và sự nhạy cảm sâu sắc của người phụ nữ với cuộc sống. Chị luôn khao khát thể hiện những điều mình cảm nhận, suy ngẫm bằng sự phong phú của ngôn từ nghệ thuật.

Khảo sát truyện ngắn của Vò Thị Hảo, người đọc có thể nhận thấy nhà văn đã rất thành công trên 3 loại truyện: truyện ngắn thế sự, truyện ngắn kỳ ảo và truyện ngắn giả lịch sử.


Chương 2

HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VÒ THỊ HẢO


2.1. Cuộc sống đa chiều và số phận con người trong truyện ngắn thế sự của Vò Thị Hảo

2.1.1 Cuộc sống đa chiều trong cái nhìn đậm thiên tính nữ của Vò Thị Hảo

Hoàn cảnh lịch sử thay đổi, thể tài thế sự đời tư phát triển mạnh mẽ và dần trở thành thể tài chính của văn xuôi sau 1975. Có thể kể đến những tác giả rất thành công khi viết về thể tài này như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng …và hàng loạt những cây bút mới nổi như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàn Diệu, Y Ban, Vò Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

Với thể tài thế sự đời tư cho phép văn chương có khả năng đi sâu vào ngò ngách tâm hồn con người, suy nghĩ cặn kẽ về các trạng thái nhân thế, nhất là trong hoàn cảnh xã hội từ trong chiến tranh ba mươi năm bước sang đời sống hoà bình đầy phức tạp và thử thách. Với thể tài này, con người bình thường, con người đời thường được miêu tả sâu sắc. Nhiều truyện ngắn đã tập trung miêu tả những con người bất hạnh với những bi kịch đau đớn của cuộc đời họ. Vấn đề các nhà văn quan tâm ở đây không phải là cuộc sống chiến đấu dũng cảm vì dân vì nước mà là cuộc sống đời thường với những lo âu toan tính, nhân vật hiện lên với tư cách cá nhân, những mảnh đời riêng lẻ.

Cùng với hàng loạt những cây bút mới nổi vào những năm 90 của thế kỉ XX như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàn Diệu, Y Ban, Phan Thị vàng Anh… Vò Thị Hảo với cái nhìn đậm thiên tính nữ đã quan tâm đến cuộc sống đa diện, đa chiều và nỗi bất hạnh, sự cô đơn, khát vọng về tình yêu và hạnh phúc, đặc biệt là người phụ nữ. Đúng như Nguyễn Hằng trong bài phỏng vấn Vò Thị

Đặc điểm truyện ngắn Võ Thị Hảo - 6


Hảo Suốt đời chỉ là giấc mơ, đã nhận định: “Chị được xếp vào hàng những cây bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người bé nhỏ trước bão lũ cuộc đời, những mảnh đời riêng tư mà chẳng riêng tư chút nào, là điều mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình” [13].

Trong truyện ngắn thế sự đời tư của Vò Thị Hảo, nhà văn đã đi sâu vào cuộc sống muôn hình vạn trạng. Ở đó chị đã cảm nhận sâu sắc bao vấn đề bức xúc, những mặt khuất lấp qua hầu hết các nhân vật là những con người bé nhỏ, những mảnh đời riêng trước bão lũ của cuộc sống thời hậu chiến. Qua đó là những trăn trở suy tư của nhà văn đối với số phận con người.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng mảng đề tài về chiến tranh vẫn được nhiều nhà văn quan tâm. Trong cái nhìn dân chủ, chiến tranh không chỉ là những chiến công hiểm hách, những chiến thắng vang dội, những tấm huân chương mà nó còn là những mất mát, bi kịch của con người. Điều này đã được Vò Thị Hảo đề cập trong truyện Vầng trăng mồ côi. Không hiểu vì nguyên cớ gì mà lão Nhát bị dân làng coi là “đồ chỉ điểm”, ném cho lão những cái nhìn kì thị như người hủi. Không chịu được cái nhìn “gằn hắt” của dân làng lão phải lên đồi làm bạn với con Ghẻ. Lão cô đơn lắm! Giận làng lắm! Ấy vậy mà trong cơn say, trong lời nguyền rủa của lão, “ mắt lão vẫn ánh lên vẻ âu yếm”[16]. Trước nguy cơ làng bị huỷ diệt bởi kẻ thù đã phát hiện ra mục tiêu, tình yêu làng trỗi dậy trong lão, không kịp suy tính thiệt hơn lão châm lửa đốt lều: “cánh tay ông lão đỏ như huyết chập bó cỏ tranh đang cháy vào ba góc của mái lều”[16]

Chiến tranh làm nên những người anh hùng nhưng nhiều khi lại cũng chính nó đã giết chết những phẩm chất anh hùng. Người lái xe nhờ ánh lửa của mái lều lão Nhát đã đưa đoàn xe tải lao qua bom đạn một cách thần kì. Anh trở thành anh hùng một cách ngẫu nhiên, anh ngơ ngác tự hỏi “sao thế nhỉ?”. Một bản thành tích có người viết sẵn. Anh được quay phim chụp ảnh,


thành người nổi tiếng, còn lão Nhát – người anh hùng thực sự lại vùi vào quên lãng. Trong hành động cứu làng của lão ai là người hiểu rò? Sự hy sinh cho cái làng đã ruồng rẫy lão chẳng ai có thể làm nhân chứng, khiến cho người có công không ai hay, người sẵn thụ hưởng để đạt được cái “mác” anh hùng thật dễ dàng. Sự bất công trong cuộc đời không còn là điều hiếm thấy hoặc còn nghi hoặc.

Chiến tranh đem lại cho con người không chỉ là nỗi đau của thân xác- sự biến dạng của hình hài mà nỗi đau lớn hơn là nỗi đau tinh thần. Nhà văn đã đào sâu vào sự thật nghiệt ngã để thấy hết mặt trái mà chiến tranh đem lại. Người lính trong truyện Biển cứu rỗi, từ giã đời lính anh trở về với vợ con khi chỉ còn một con mắt giả, thân hình tiều tuỵ nhưng vẫn khấp khởi mường tượng ra cảnh vợ con giang tay đón mình trong ngày đoàn tụ với những giọt nước mắt hạnh phúc sau bao năm chợ đợi mỏi mòn. Người đầu tiên anh gặp là vợ anh, chị đã khóc tức tưởi, nhưng đó không phải là những giọt nước mắt của hạnh phúc, mà nước mắt của bao nỗi đau khiến chị “nửa thân trên gần như đổ về phía anh, nhưng chân cứ bị chôn chặt trong xó nhà, ngó anh trân trân rồi sụp xuống đất, oà khoc tức tưởi”[16] . Sự xuất hiện “ba gương mặt hoàn toàn khác nhau” của ba đứa trẻ lít nhít trong nhà “chúng không mang gương mặt anh”[16] khiến anh không cầm được lòng anh rít lên “con tao đâu? Đồ đĩ..” . Ngay lúc đó một đứa khác trạc mười năm tuổi, đi òng ẹo, chào chú, nhoẻn cười. “nụ cười chưa hết sữa nhưng đã mang hơi hướng đổi trác”[16]. Chiến tranh đã lấy đi của anh một phần của cơ thể, nỗi đau này có thể khoả lấp nếu như hạnh phúc gia đình trọn vẹn, nhưng không, chiến tranh còn lấy đi của anh mái ấm gia đình. “Số phận không giành cho anh người đàn bà xoã tóc chờ chồng” mà đón anh là “Những đứa trẻ khác bố”, hậu quả của Những cuộc giao hoan vội vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần”[16] ...


Với những người phụ nữ, chiến tranh là nguyên nhân của những bi kịch, bởi chính nó đã lấy đi tuổi xuân, ước mơ và hạnh phúc của họ. Trong truyện Người sót lại của rừng cười, nhân vật Thảo là người sống sót trong năm cô gái ở rừng Trường Sơn. Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, vẻ đẹp thanh xuân của những cô gái nơi chiến trường. Thảo nhập ngũ với mái tóc óng mượt dài chấm gót nhưng cũng bị dòng nước khe màu xanh đen thớ lợ nơi chiến trường vặt trụi dần như các chị mình. “Bốn cô gái trẻ măng nhưng mái tóc chỉ còn là dúm xơ xác”. Họ bị tổn thương bởi sự cô đơn và khắc nghiệt của chiến tranh. Với ba mùa mưa rầu rĩ và đang là mùa khô thứ tư bỏng rát, những cô gái ngày càng sống tách biệt với đồng loại, họ trở lên hoang dã và như hoá điên : “Trên sàn chòi khấp khểnh, ba cô gái đang vừa cười vừa khóc, tay bứt tóc và xé quần áo. Còn một cô gái trẻ hơn đang chạy tới chạy lui ôm đầu đầy tuyệt vọng”. Hình ảnh những cô gái này là nỗi ám ảnh của anh lính: “Sau chín năm ở chiến trường, nay tôi đã nhìn thấy ở rừng cười, cái méo mó, man dại của chiến tranh…Tôi rùng mình khi nghĩ rằng, người yêu tôi, em gái tôi, cũng đang cười sằng sặc như thế, giữa một khu rừng mênh mang nào đó….. Tôi sẵn sàng chết hai lần cho họ khỏi lâm vào cảnh ấy”.

Vò Thị Hảo cảm nhận rò, chiến tranh không chỉ tàn phá nhan sắc của người phụ nữ mà còn khiến cho họ đau đớn cả tâm hồn. Thảo may mắn sống sót và trở về từ Rừng cười Trường sơn, nơi giáp ranh giữa sự sống và cái chết giữa trần gian và địa ngục, nhưng sự khốc liệt của chiến tranh vẫn không buông tha mà vẫn ám ảnh, in hằn trong cuộc sống của cô. Trở về với cuộc sống thời bình thoát khỏi nỗi cô đơn chết người nơi rừmg già Trường Sơn, cô rơi vào nỗi cô đơn ngay giữa đồng loại mình, một khoảng cách xuất hiện trong Thảo. Cô thường nhớ cái lần đầu gặp lại người yêu sau mấy năm xa cách: “ Thảo xuống tàu, vai đeo ba lô, thân hình gầy gò trong bộ quân phục lạc lòng, qua làn môi nhợt nhạt, mái tóc xơ xác…. Làm anh ngỡ ngàng đến không thốt


nổi lên lời”. Trong cuộc sống mới, dù cô đã cố gắng hết sức nhưng Thảo không sao thanh thản được như những bạn bè, bởi ở họ cả trong giấc mơ làn môi luôn cười thanh thản, mặt ửng hồng, trông đáng yêu làm sao. Còn cô thường qua đêm với hai loại giấc mơ, một là thời bé mơ nhặt được cặp ba lá hay trứng vịt đẻ rơi, hai là giấc mơ tuổi thanh xuân: “Cô chỉ thấy tóc rụng như chút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm và từ trong đám tóc ấy nẩy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thuỷ tinh, đập mãi không vỡ”. Sự đối lập ngay cả trong giấc mơ đã khiến Thảo càng lạc lòng. Sự lạc lòng đó càng sâu hơn khi thấy cô bạn gái học cùng lớp với Thành có đôi môi mòng mọng như nũng nịu, với làn da trắng hồng, tươi mát trẻ trung nhìn Thành với ánh mắt say mê ngưỡng mộ. Thảo biết họ thầm yêu nhau, họ đẹp đôi quá và lại ở gần nhau. Sự mặc cảm làm cho Thảo tủi thân hơn, cô sống khép mình và xa lánh Thành. Thời gian cô còn sống ở Rừng cười, tình yêu với Thành là hy vọng thúc giục cô thoát khỏi cuộc sống hoang dã nơi rừng sâu. Cô khao khát đến cháy lòng ngày được trở về và ngả vào vòng tay âu yếm của Thành, thì giờ cô lại tự nguyện xa Thành để anh được hạnh phúc. Bởi cô hiểu rằng Thành gắn bó với cô chỉ là nghĩa chứ không có tình. Nỗi xót xa, cay đắng trong Thảo như dâng trào, cô không điên nơi rừng già, chiến trận mà cô như hoá điên khi tự viết cho mình những lá thư vào tối thứ năm và rồi nhận lại nó vào chiều thứ bẩy. Và nỗi đau đến tột cùng khi cô vừa cười vừa trong một trạng thái gần như vô thức. Thảo là người may mắn sống sót trong chiến tranh, nhưng trở về cuộc sống thời bình thì hạnh phúc lại không đến với cô. Đó là thực tế nghiệt ngã mà nhà văn Vò Thị Hảo đã nhìn thấu đáo.

Thảo là nạn nhân của chiến tranh, là người trực tiếp bước ra từ cuộc chiến khốc liệt, nhưng cuộc đời còn có biết bao hoàn cảnh tàn nhẫn khác. Nhà văn còn thấu hiểu chiến tranh không chỉ cướp đi bao sinh mạng của những người ra trận, mà nó còn để lại nỗi đau cho nhiều thế hệ. Trong truyện Trận


gió màu xanh rêu là nỗi bất hạnh của người phụ nữ có chồng ra trận. Người đàn bà bất hạnh hai lần đón nhận nỗi đau thương để rồi chị không thể chịu đựng nổi và đã hoá điên. Lần thứ nhất là sự đón nhận tin hi sinh của người chồng. Lần thứ hai là hành trình đi tìm hài cốt của chồng để phải chứng kiến một sự thật cay đắng nhẫn tâm của người đời. Cho đến lúc hoá điên, người đàn bà đó vẫn tin “đài người ta báo nhầm đấy thôi. Làng trên chả có hai người báo tử rồi lại lừng lững về là gì. Em biết anh còn sống mà”. Bà bỏ làng đi lang thang khắp nơi để tìm kiếm, khiến đứa con gái mới mười sáu, mười bảy cũng phải bỏ học đi lang thang theo mẹ. Bước chân tình cờ lại đưa bà dạt đến làng Đẽo- cái làng mà đa số dân là đàn bà luống tuổi và khô héo, cái làng có chung nhau một ngày giỗ cho những người chết trận. Cuộc sống thiếu vắng đàn ông đã biến những người phụ nữ trở thành lầm lũi, hàng ngày còng lưng đẽo đá và mong chờ một ngày giỗ chồng chung của cả làng. Không biết có bao nhiêu người đã hi sinh và bao nhiêu cái làng Đẽo mà ở đó có những người đàn bà với đôi tay nổi bật là to xù và sần sùi như tay đàn ông, cùng nhau chít khăn trắng, đầu đội mâm cỗ kéo nhau tới bệ đá trước tượng đài ở chân núi để làm giỗ chung. Chiến tranh đã để lại nỗi đau và sự mất mát quá lớn không thể bù đắp được cho con người. Dám nhìn thẳng vào sự thật, mặt trái của chiến tranh để phản ánh bao điều còn day dứt cũng là một cách thể hiện, một thái độ thẳng thắn của Vò Thị Hảo. Cho dù chiến tranh đã qua đi, nhưng nhà văn hiểu rằng đằng sau cái vẻ bình yên của cuộc sống thời bình hôm nay, có không biết bao người đang sống trong sự giày vò của những mất mát không gì bù đắp được, nó để lại những vết sẹo hằn sâu nơi trái tim của con người để rồi khi nhắc đến họ lại dường như không thể chịu nổi vết thương lòng mà họ cố đào sâu, chôn chặt.

Vò Thị Hảo luôn nhìn con người, đặc biệt là người phụ nữ với cái nhìn cảm thông chia xẻ, ngay cả khi họ mắc lỗi lầm. Trong Biển cứu rỗi, cho dù người vợ đã biến ngôi nhà thành nơi diễn ra “ những cuộc giao hoan vội


vã thoảng mùi chết chóc trước khi đi vào họng tử thần” của những người lính ra trận và rồi hậu quả để lại là những đứa trẻ khác bố lít nhít trứng gà trứng vịt, chị không thể là người đàn bà chờ chồng đến bạc tóc bởi “ cả làng trắng đàn ông, chỉ còn lại đây đó các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày cầm súng đi lấp hố bom và bị buộc trở thành đàn ông. Trong khi đàn bà được tạo hoá sinh ra để làm chiếc dây leo đẹp quấn yểu điệu quanh cây đai thụ : Người đàn ông.” Vò Thi Hảo dường như đã thấu hiểu tâm trạng, nỗi nhọc nhằn quá lớn của người phụ nữ. Nhà văn không chỉ hướng ngòi bút vào việc nhìn thẳng vào sự thật trong chiến tranh mà còn thể hiện sự chia xẻ cảm thông sâu sắc với họ. Đó là những gì thuộc về mặt trái của chiến tranh mà trước đó văn học chưa có điều kiện nói tới.

Hiện thực của cuộc sống thời bình với nền kinh tế thị trường, với sự xâm nhập của cái tốt- xấu và theo đó là những biến dạng, tha hoá của con người thời hiện đại đã khiến Vò Thị Hảo đặc biệt quan tâm. Trong Miền bọt nhà văn đã kể lại câu chuyện mà mình chứng kiến, trong đó dường như tốt xấu đổi ngôi đang diến ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Một nhà hàng, một phòng hát Karaoke bao gồm một chính khách hạng xoàng, một giám đốc công ty xuất nhập khẩu, một nhà báo, Khoan – chuyên viên luật, Phan và ba cô gái. Trong phòng vừa đủ bốn đôi. Với âm thanh nổi lên là giai điệu “Cúc cu! Cúc cu! Chim rừng ca trong nắng...” và trên màn hình là hình ảnh của những đôi trai gái tóc vàng đang hôn nhau. Sự va chạm của cơ thể và những cặp chân “nần nẫn” phơi ra như khiêu khích của các cô gái khiến cho ba người đàn ông không khỏi sượng sùng. “ Như những chú nhái bị con rắn thôi miên, họ ôm chặt lấy các cô gái … ” Phan im lặng thở hổn hển, nàng chạy trốn khỏi bữa tối trong sượng sùng xấu hổ “nước mắt chỉ chực trào ra”. Đó là một phần của cuộc sống hiện đại. Theo bước chân Phan, là cuộc sống của những cô tiếp viên sau giờ làm việc. Sau một ngày làm việc, các cô bước

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 04/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí