nhất được biết đến và nó còn có thể chiếu sang. Thực tế, 1g vàng có thể được dập thành tấm 1m2, hoặc 1 ounce thành 300 feet2. Là kim loại mềm nên vàng thường được kết hợp với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm. Vàng có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí. Vì đặc điểm này vàng được sử dụng làm dây vi mạch nối vòng trong các chất bán dẫn, hay “bộ não” của máy tính. Vàng cũng được dùng làm chất bột dính để in thành mạch điện trên nền gốm (ceramic), sản xuất ra bộ mạch in. Vàng tạo hợp kim với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng, bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Vì vậy vàng được sử dụng để làm các đồ trang sức và có thể kết hợp nhiều kim loại tạo ra màu sắc cho vàng rất đẹp [23].
1.1.3. Tính thẩm mỹ
Vàng là một kim loại có tính thẩm mỹ cao. Màu của vàng rắn cũng như của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường là tía) được tạo ra bởi tần số plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ. Vàng tạo hợp kim với nhiều kim loại khác, hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng, bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Với các tính thẩm mỹ trên vàng thích hợp nhất để làm đồ trang sức. Đồ trang sức bằng vàng trở nên đa dạng hơn khi được kết hợp với các kim loại khác. Và làm đồ trang sức cũng làm tăng giá trị thẩm mỹ của vàng.
1.2. Ứng dụng của vàng
Với các đặc tính như trên của vàng, vàng được ứng dụng vào cuộc sống với nhiều mục đích khác nhau.
1.2.1. Làm đồ trang sức
Vàng là một trong những kim loại được yêu thích nhất để sản xuất đồ trang sức. Đồ trang sức làm bằng vàng thường có: nhẫn, vòng cổ, vòng đeo tay, lắc, hoa tai, cài áo…thậm chí vàng còn được sử dụng để trang trí vào các vật dụng như bình hoa, bật lửa, bút máy…Đồ trang sức bằng vàng được chế tạo theo các tiêu chuẩn sau: 9, 14, 18 và 24 cara. Vàng 18 cara nghĩa là 18 phần vàng ròng trong 24 phần vàng, tương đương 75% vàng ròng. Vàng 24 cara thì quá mềm nên khó có thể tạo ra trang sức hay dùng để đúc tiền. Vì thế vàng trong trang sức là vàng đã được kết hợp với các kim loại khác như bạc, đồng, v.v…không chỉ để tạo độ cứng mà còn tạo ra các màu sắc khác nhau, tạo ra được nhiều kiểu dáng phong phú và đa dạng. Đồng là kim loại thường được kết hợp với vàng tạo ra màu đỏ hơn. Vàng 18k kết hợp với 25% đồng thường được dùng làm đồ giả cổ hoặc nữ trang, và cũng có thể làm hoa bằng vàng có màu đỏ. Vàng 14k có màu đồng đỏ được sử dụng để làm huy hiệu như làm huy hiệu cảnh sát hay trong quân đội. Vàng xanh được tạo ra bằng cách trộn vàng và sắt, vàng màu đỏ tía là vàng trộn với nhôm. Các loại vàng này dùng để làm nữ trang hoặc đồ trang trí.
1.2.2. Là một loại kim loại thiết yếu
Với những tính chất hoá học và vất lý của vàng nêu trên nên vàng được coi như một loại công nghiệp thiết yếu và bắt đầu nổi lên vào cuối thế kỷ 20. Tính dẫn nhiệt dẫn nhiệt cao và đề kháng ôxy hoá, vàng được sử dụng để mạ bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và trở kháng thấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Thị trường vàng Việt Nam thực trạng và giải pháp - 1
- Nguồn Cung Cấp Vàng Trung Bình Trong 5 Năm Từ Năm 2004-2008
- Sản Lượng Vàng Thế Giới Theo Khu Vực Từ Năm 1980 - 2007
- Thực Trạng Về Tình Hình Hoạt Động Thị Trường Vàng Giai Đoạn 2007-2009
Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.
Thêm vào đó vàng có thể làm thành sợi mỏng để làm chỉ trong ngành thêu, tạo ra tranh thêu vàng quý hiếm.
Hơn thế nữa vàng còn được sử dụng để thực hiện chức năng quan trọng trong máy tính, thiết bị thông tin liên lạc, đầu máy bay phản lực, tàu không gian và nhiều sản phẩm khác nữa.
Vàng được dung trong nha khoa phục hồi, được biệt trong phục hồi răng như thân răng và cầu răng giả.
Vàng keo là dung dịch đậm màu đang được nghiên cứu trong nhiều phòng thí nghiệm y học sinh học. Nó cũng là dạng được dùng làm nước sơn vàng lên đồ gốm trước khi nung.
Mỗi năm khoảng 10% sản lượng vàng được sử dụng cho các quy trình công nghiệp
1.2.3. Là tiền loại tiền tệ thế giới chung duy nhất
Vàng là loại tiền tệ được các quốc gia đương nhiên thừa nhận làm phương tiện thanh toán quốc tế, phương tiện lưu trữ quốc tế mà không cần phải thừa nhận trong bất cứ Hiệp định ký kết nào giữa các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, ngoài vàng ra chưa có một đồng tiền nào có thể thay thế vàng trong chức năng đồng tiền thế giới.
Khi vàng là tiền tệ thế giới có các đặc điểm như sau:
-Nhiều năm nay, vàng trở thành tiền tệ dự trữ của các quốc gia trong thanh toán quốc tế
-Vàng không dùng để thanh toán hàng ngày của các giao dịch phát sinh giữa các quốc gia
-Không dùng vàng để thể hiện giá cả cũng như tính toán tổng giá trị hiệp định hoặc hợp đồng
-Tiền giấy không được đổi ra vàng một cách tự do thông qua hàm lượng vàng của tiền tệ.
-Vàng chỉ được sử dụng để các quốc gia trả nợ cho nhau khi mà không tìm ra được các công cụ khác để trả nợ.
1.3. Đơn vị đo lường và cách quy đổi của Vàng
Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, đơn vị đo lường được tính theo cây (lượng hay lạng) hoặc nhỏ hơn là chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 gram. Một chỉ bằng 1/10 cây vàng. Còn trên thế giới, vàng thường được tính theo đơn vị là ounce hay troy ounce. 1 ounce tương đương với 31,103476 gram.
Tuổi vàng được tính theo thang độ K (karat). Một Karat tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 9999 tương đương với 24K. Khi người ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng xấp xỉ 75%. Vàng được sử dụng làm đồ trang sức còn được gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K.
- Thị trường vàng thế giới
*Đơn vị yết giá : USD/ounce
*1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng
*1 lượng = 1,20556 ounce
- Thị trường vàng trong nước
*Đơn vị yết giá VNĐ/lượng
*Công thức chuyển đổi giá vàng thế giới (TG) sang giá vàng trong nước (TN)
TN = (TG + phí vận chuyển)* 120556*(1+thuếNK)*tỷ giá USD/VNĐ+ phí gia công
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vai trò và chức năng tiền tệ của vàng không hề bị phai mờ, thậm chí vàng ngày càng có nhiều ứng dụng và đóng
vai trò quan trọng hơn trong đời sống kinh tế của con người, trong đó một vai trò quan trọng nhất của vàng là chức năng tiền tệ.
2.1. Vàng với vai trò là một loại tiền tệ
Vai trò quan trọng và thường thấy nhất của vàng gắn liền với chức năng tiền tệ. Vàng được sử dụng làm dự trữ tại các ngân hàng trung ương. Tính đến thời điểm năm 2004, các ngân hàng trung ương trên thế giới và các tổ chức tài chính chính thức nắm giữ khoảng 19% tổng trữ lượng vàng trên mặt đất với chức năng cất trữ. Tính cho đến nay, Hoa Kỳ là đất nước đứng đầu trong danh mục các nước dự trữ vàng nhiều nhất thế giới, lên đến con số khoảng 8.133,5 tấn, theo sau đó là Đức, Italy, Nhật Bản Trung Quốc...song xét về khu vực thì Châu Âu là khu vực cất trữ nhiều vàng nhất trên toàn thế giới.
Với chức năng tiền tệ, vàng không chỉ dung để cất trữ trong khi của các ngân hang trung ương, vàng còn được sử dụng làm tài sản tiết kiệm truyền thống và phổ biến ở nhiều quốc gia, nhất là các nước Á Đông. Vàng được sử dụng làm tiết kiệm dưới dạng trang sức như dây chuyền, nhẫn, vòng, lắc hoặc dạng thanh (cây) vàng. Theo như một số tài liệu thống kê thì vàng là thứ trang sức rất phổ biến ở Ấn Độ còn ở Việt Nam người dân mua vàng với tâm lý tiết kiệm và coi đây là một biện pháp an toàn nhằm bảo đảm giá trị tiền hoặc làm của hồi môn cho con cháu.
Bên cạnh đó, trong vai trò là một loại tiền tệ thế giới, vàng hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ bản để thực hiện chức năng tiền tệ của mình đó là được cả thế giới công nhận là tiền tệ, vàng có tính dễ nhận biết nhất trong lưu thông do đặc tính màu sắc, tính dễ chia nhỏ nên các mệnh giá khác nhau để người bán và người mua có thể trao đổi, tính lâu bền nên được sử dụng lâu dài qua thời gian, vàng có tính dễ vẫn chuyển, và thêm vào đó vàng có tính khan hiếm nên nó có giá trị. Vàng đáp ứng tất cả các yêu cầu trên và có thể nói rằng nó là dạng vật chất duy nhất trên thế giới đáp ứng được. Lượng vàng mà con người
có được không thay đổi đột biến trong nhiều thế kỷ; lượng vàng bổ sung nhờ khai thác được là khá nhỏ và dự tính được.
Ngoài vai trò để dự trữ và tiết kiệm vàng còn có vai trò to lớn trong sản xuất công nghiệp để sản xuất thiết bị, công nghiệp sản xuất vũ khí cũng như sản xuất đồng hồ.
2.2. Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ
2.2.1. Chế độ đồng bản vị
Trong chế độ phong kiến, bạc là kim loại tiền tệ chủ yếu. Ở giai đoạn đầu chủ nghĩa tư bản, Nhà nước quy định dùng bạc làm kim loại tiền tệ. Khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhất là những khoản giao dịch với khối lượng hàng hoá có giá trị lớn ngày càng tăng khiến cho việc dùng bạc làm vật ngang giá chung không còn thích hợp nữa. Vì giá trị của bạc rất nhỏ, do vậy người ta phải tìm kim loại khác có giá trị cao hơn bạc để đưa vào lưu thông. Kim loại đấy chỉ có thể là vàng. [1]
Vì vậy, vàng bạc luôn là kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn các kim loại khác, bởi những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất những gì mà một đồng tiền hàng hoá cần có: sự khan hiếm, tính bền, có thể chuyên chở, dễ chia nhỏ, và chất lượng được duy trì lâu bền
Sự chấp nhận vàng và bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế là các loại kim loại này được thừa nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp và trang sức. Hơn nữa giá trị của vàng và bạc được ổn định tương đối so với các hàng hoá khác, ngoài ra, chất lượng của chúng có thể kiểm tra một cách chính xác và được các chuyên gia hay còn gọi là thợ vàng chứng nhận.[8]
Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận trong lịch sử loài người. Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ mà pháp luật Nhà nước quy định hai kim loại vàng và bạc đồng thời làm kim loại tiền tệ, hai loại tiền vàng và tiền bạc được tự do đúc và có hiệu lực pháp lý thanh toán vô hạn
Căn cứ vào cách quy định về mối quan hệ trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc mà chia chế độ đồng bản vị ra làm hai loại cụ thể: Chế độ bản vị song song và chế độ bản vị kép.
Chế độ bản vị song song là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Ở chế độ bản vị này, hàng hoá kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị đây đủ các đồng xu, tức giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Vì vậy, khi giá vàng thay đổi so với bạc thì sẽ làm cho tỷ lệ trao đổi giữa các đồng xu vàng và bạc thay đổi theo. Mặc dù tiền xu được đúc mang theo nhãn hiệu riêng của từng quốc gia làm theo bằng chứng bảo đảm về nội dung và chất lượng kim loại, nhưng trong thực tế các quốc gia thường đúc những đồng xu bằng hỗn hợp kim loại là vàng hay bạc hay với các kim loại khác có giá trị thấp hơn. Các quốc gia ngày càng thường xuyên giảm tỷ trọng vàng bạc trong các đồng xu, điều này dẫn đến các đồng xu mất dần giá trị lưu thông, cho nên hành động này cũng giống như hành động phá giá trong thời hiện đại.
Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định cụ thể giá trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc. Ví dụ, ở nước Mỹ năm 1792 quy định tỷ giá này là 1/15. Thông thường người ta gọi chế độ hai bản vị chủ yếu chỉ là chế độ bản vị kép này.
Chế độ bản vị bạc tồn tại cho tới năm 1834, khi Quốc hội Mỹ quyết định tăng giá vàng từ $19,394/ounce len $20,76/ounce, trong khi đó bạc vẫn giữ nguyên nhằm khôi phục lại chế độ đồng bản vị kim loại. Như vậy tỉ lệ bạc: vàng là 16, trong khi thế giới vẫn là 15,5. Một lần nữa trong thực tế nước Mỹ lại chỉ có chế độ bản vị kim loại vàng.
Năm 1879, Mỹ quyết định chuyển đổi trở lại USD ra vàng mà không chuyển đổi ra bạc, đây là một bước quan trọng trong việc hình thành chế độ
đơn bản vị vàng (bản vị vàng) ở Mỹ. Tuy nhiên chế độ này vẫn không được chính thức phê chuẩn cho tới khi có Đạo luật bản vị vàng vào năm 1990.[8]
Chế độ đồng bản vị là một chế độ tiền tệ không ổn định bởi bản tính của tiền tệ là độc chiếm, gạt bỏ cái khác. Việc pháp luật thừa nhận cả bạc và vàng đều là kim loại tiền tệ là trái với bản tính đó của tiền tệ.
Trong chế độ bản vị song song do lưu thông tiền vàng và tiền bạc căn cứ theo giá trị thực tế của kim loại tiền tệ chứa trong nó, cho nên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng hai loại giá cả: giá cả tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại này tất nhiên sẽ thay đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim loại vàng và kim loại bạc hình thành tự phát trên thị trường, vì vậy giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ bị hỗn loạn và dẫn đến sự hỗn loạn của thị trường.
Trong chế độ bản vị kép, Nhà nước quy định tỷ giá cố định giữa tiền vàng và tiền bạc để khắc phục tình trạng không ổn định của lưu thông hàng hoá do chế độ bản vị song song gây ra, nhưng lại gây ra hiện tượng tiền xấu đẩy tiền tốt ra khỏi lưu thông, điều đó làm cho chế độ tiền tệ bị hỗn loạn nghiêm trọng.
Khi hai loại tiền có giá trị thực tế không bằng nhau mà giá trị danh nghĩa của chúng được nhà nước quy định tách rời nhau khỏi giá trị thực tế của nó và cùng lưu thông theo giá trị danh nghĩa đó thì loại tiền có giá trị thực tế cao hơn tất nhiên dẫn dần sẽ bị rút khỏi lưu thông, còn loại tiền kém hơn sẽ được đưa vào lưu thông do tràn ngập thị trường. Hiện tượng này được goi là quy luật Gresham.
Dưới tác dụng của quy luật này, thực tế trong chế độ hai đồng bản vị kép chỉ còn một đồng tiền có giá trị thấp trong lưu thông. Đây là tiền đề cho sự ra đời của chế độ một bản vị sau này.[1]
2.2.2. Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị tiền vàng là chế độ trong đó tiền tệ được đúc bằng vàng một cách tự do, tiền phụ và tiền tín dụng, tiền ngân hàng được đổi ra tiền vàng