Cuộc Đấu Tranh Giữa Thơ Mới Và Thơ Cũ

Hàng loạt sáng tác của Thế Lữ như "Vàng và máu" (1934), "Bên đường thiên lôi" (1937), "Lê Phong phóng viên" (1937), "Mai Hương và Lê Phong" (1937), "Đòn hẹn" (1939), "Gói thuốc lá" (1940), "Trại Bồ Tùng Linh" (1941) đã gây được tiếng vang lớn. Những sáng tác này cho thấy Thế Lữ là một nhà văn có tài quan sát, có óc phân tích sắc bén, có trí tưởng tượng dồi dào.

Có thể nói, so với những tác phẩm văn xuôi truyền thống và tiểu thuyết cùng thời, tiểu thuyết của Thế Lữ đã gây được một ấn tượng đặc biệt trong lòng người đọc. Với tiểu thuyết của Thế Lữ, nghệ thuật văn xuôi dường như bước sang một trang mới từ cách xây dựng hình tượng, đổi mới hệ thống cốt truyện đến đổi mới về hình thức. Bởi thế, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã viết "Về tiểu thuyết, tuy truyện trinh thám ông chưa thành công nhưng về truyện ghê sợ ông đã tỏ ra một tiểu thuyết gia có biệt tài" [26 - 1953].

Trong lĩnh vực sân khấu: ngay từ khi gia nhập Tự lực văn đoàn, Thế Lữ đã quan tâm tới nghệ thuật biểu diễn kịch. Từ 1935 - 1937 vừa làm biên tập, viết báo, sáng tác và công bố các tác phẩm văn chương. Ông thành lập nhóm kịch Thế Lữ ở Hải Phòng, tham gia ban kịch Tinh hoa, ban kịch Anh Vũ bằng nhiều công việc như quản lý đoàn kịch, chỉ đạo nghệ thuật diễn, sắm vai và viết kịch bản. Thế Lữ còn là một dịch giả dịch những tài liệu về sân khấu và kịch bản kịch nói, kịch thơ. Nói về vai trò của Thế Lữ trong lĩnh vực này Phan Trọng Thưởng trong bài viết Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong đã khẳng định "Thế Lữ là người đầu tiên đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta trở thành chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở thành một nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh".

Nhưng có lẽ không ở đâu, cốt cách người đi tiên phong của Thế Lữ lại được bộc lộ đầy đủ như ở Thơ mới. Để thấy rõ được công lao đóng góp của Thế Lữ dưới đây chúng tôi sẽ dựng lại bước khởi đầu của Thơ mới để thấy rõ được vai trò tiên phong của người nghệ sĩ đa tài Thế Lữ.

1.2.1. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và Thơ cũ

Phong trào thơ mới (1932 - 1945) là một cuộc vận động đổi mới thơ ca rộng lớn, mang tầm vóc một cuộc cách mạng trong thơ ca tiếng Việt. Nó đã chuyển đổi hệ thống thi pháp thơ ca từ thơ pháp trữ tình điệu ngâm sang thơ trữ tình điệu nói, đưa thơ ca tiếng Việt sang phạm trù thơ hiện đại. Phong trào này được mở đầu bằng cuộc tranh luận sôi nổi giữa Thơ mới và Thơ cũ.

Cuộc tranh luận kết thúc khi thắng lợi hoàn toàn thuộc về Thơ mới. Để giành phần thắng cho Thơ mới, công đầu phải kể đến những người đi tiên phong trong việc đề xướng Thơ mới phê phán thơ cũ.

Năm 1917 trên tờ An Nam tạp chí (số 5 - tháng 11) Phạm Quỳnh lần đầu tiên lên tiếng thở than về tình trạng thơ ca đương thời. Ông cho rằng: thơ Đường luật là thứ thơ phiền phức, luật lệ ràng buộc khắc nghiệt không khác luật hình. Đến năm 1927, Phan Khôi trên Đông pháp thời báo đã táo bạo công kích thơ cũ, cho thơ cũ là thứ thơ trói buộc, hãm đà, thô tục. Sang năm 1929, tờ Trung Bắc tân văn lần đầu tiên đăng một bài thơ dịch không niêm luật, không hạn chế số câu - đó là bài Con ve và con kiến do Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ La Phông Ten. Cũng trong năm này Trịnh Đình Rư viết một loạt bài đăng trên Phụ nữ Tân Văn mạnh mẽ công kích thơ Đường luật "bó buộc người ta theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào" [22,6] và ông đề nghị sáng tác thơ theo thể lục bát và song thất lục bát hoàn toàn dân tộc.

Song đến thập kỷ thứ ba của thế kỷ XX, vấn đề cải cách thi ca đã trở thành một nhu cầu bức xúc của văn học dân tộc. Ngày 10/3/1932 báo Phụ nữ Tân văn xuất bản ở Sài Gòn đăng bài: Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ cùng bài thơ Tình già của Phan Khôi.

Trong bài báo này Phan Khôi nhận thấy truyền thống của thơ ca cổ điển hàng ngàn năm với di sản đồ sộ và những áng thơ tuyệt bút của người xưa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

cùng với những quy định chặt chẽ về thi pháp đang là gánh nặng của thi sĩ đương thời. Những nguồn cảm hứng thi ca quen thuộc được nói quá nhiều đã nhàm chán. Những cảm xúc vui buồn của con người thời nay muốn nói ra lại bị khuôn phép thơ xưa cản trở. Phan Khôi cho rằng: thơ cốt chơn, mà thơ cũ vì công thức quá nhiều nên mất chơn. Theo luật Đường thi, người làm thơ có thể trực tiếp biểu đạt được tình cảm, cảm xúc có thật cùng mình, vì vậy nhà thơ xa lạ với đời sống tình cảm của con người. Những biểu tượng, hình ảnh mĩ lệ hoá nhiều thành công thức sáo mòn mất đi sức truyền cảm. Bởi vậy Phan Khôi đề xướng một lối thơ mới "đem ý thật trong thâm khảm mà nói ra bằng những câu có vần và không phải bó buộc bởi niêm luật" [54.53].

Về hình thức lối thơ mới, Phan Khôi cho rằng vẫn phải có vần nhưng những niêm luật bó buộc thì phải bỏ hết câu thơ tự do thì mới đủ sức diễn tả những cảm xúc thơ ca mới của con người thời nay. Để minh hoạ cho ý tưởng trên Phan Khôi cho in kèm bài Tình Già - bài thơ mà sau này nhiều người cho là không có gì là mới mẻ, nhưng lúc bấy giờ nó như một luồng gió lạ.

Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - 4

Để diễn đạt tâm sự vơi đầy trong bài thơ, Phan Khôi không chỉ phá bỏ niêm luật, câu thơ được nới rộng ra thoải mái: câu dài 16 - 17 chữ, câu ngắn cũng 10 chữ, ý tình kín khuất của nhân vật trữ tình được giãi bầy một cách rõ ràng, dễ hiểu, chân thật. Nguyên tắc mạch kỵ lộ của Đường thi trở nên xa lạ.

Do ý tưởng táo bạo của Phan Khôi trong bài báo và sự mới lạ của bài thơ Tình già, đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn (10/3/1932) được coi là sự đột khởi trên thi đàn Văn học Việt Nam; Với bài thơ này, Thơ mới đã có một tuyên ngôn thứ nhất, một hình hài đầu tiên. Cánh cửa đã mở, dù là mở hé đã cho người ta thấy một chân trời khác của thơ ca.

Sự ra đời của bài Tình già tạo ra hai luồng dư luận trái ngược nhau. Những người có tư tưởng tiến bộ thì lạc quan cho đó là dấu hiệu hình thành nền học thuật mới. Ngược lại những người hoài nghi bảo thủ cho rằng đó là

thứ "quái thai của thời đại, nếu để nó sống sẽ là điều sỉ nhục cho nền học thuật nước nhà" [21.99]. Những người ủng hộ Phan Khôi sớm nhất, nhiệt tình nhất là thanh niên tân học. Trong số những người trẻ tuổi đó là nổi lên hàng đầu là tên tuổi của Nguyễn Thị Kiêm ở Nam Bộ và Thế Lữ ở đất Bắc.

Nguyễn Thị Kiêm biệt hiệu là Nguyễn Thị Manh Manh hay ký bút danh là Manh Manh. Khi Phan Khôi hô hào lối Thơ mới người Nữ sĩ này lập tức hưởng ứng rất nhiệt tình. Sau những bài thơ của Phan Khôi, của Lưu Trọng Lư là hai bài thơ Canh tàn, Viếng phòng vắng ký tên Nguyễn Thị Manh Manh. Với hai bài thơ này Nguyễn Thị Kiêm không chỉ phá thể, phủ nhận khuôn phép xưa mà còn gieo tư tưởng lãng mạn, bộc lộ khao khát yêu đương của tuổi trẻ. Ở những bài tiếp theo như Hai cô thiếu nữ, Bức thư gửi cho tất cả những ai ưa và ghét lối Thơ mới, nữ sĩ đã thả sức thể nghiệm: chất tự sự, lời đối thoại, ngữ điệu nói, chất tư duy luân lý... tràn vào thơ.

Nguyễn Thị Kiêm đã "rất có ý thức và hăng hái tạo ra Thơ mới" (chữ dùng của Nguyễn Tấn Long) [21.179] bằng cách sáng tạo những bài thơ phá thể, phá cách: bỏ niêm, luật đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, mở rộng biên độ câu thơ. Hướng thể nghiệm này đã tạo những viên gạch đầu tiên để dựng lên toà lâu đài Thơ mới.

Để bảo vệ Thơ mới, Nguyễn Thị Kiệm đã dũng cảm mở mặt trận khẩu chiến đấu tranh với phái ủng hộ thơ cũ. Ngày 26/7/1933 nữ sĩ đã đăng diễn thuyết tại Hội khuyến học Sài Gòn, chỉ ra hạn chế của luật thơ Đường "Khuôn khổ luật phép phiền phức, nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một phạm vi co hẹp lúng túng, cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy trăm bài khác, còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người phát minh ra trước rồi" Nữ sĩ cũng chỉ rõ Thơ mới là gì và tại sao Thơ mới phải ra đời "Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị "đẹt" mất thì cần một lối thơ khác, lề lối nguyên tắc rộng hơn. Thơ này khác với thơ xưa nên gọi là Thơ mới" [54, 100].

Đến tháng 1/1935 Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết, tranh luận tay đôi với ông Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn. Sự năng nổ, táo bạo của Nguyễn Thị Kiêm đã cổ vũ khích lệ những người trẻ tuổi ra sức sáng tác và lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới. Theo gương nữ sĩ, nhiều người đã viết báo, diễn thuyết cổ vũ cho Thơ mới, tạo ra một phong trào rầm rộ từ Nam đến Bắc, lôi cuốn hầu hết các tờ báo và tạp chí đương thời vào cuộc, tạo ra một bầu không khí học thuật tích cực để các thanh niên trẻ mạnh dạn thể hiện tài năng của mình trong lĩnh vực thơ ca.

Sau những tuyên ngôn và thể nghiệm đầu tiên, Thơ mới đã dành được sự quan tâm của công luận. Các báo và tạp chí như Phụ nữ Tân Văn; Phong hoá; Văn hoá tạp chí; An Nam tạp chí, Văn học tuần san, Hà Nội báo đều bị cuốn vào cuộc tranh luận Thơ mới - Thơ cũ. Thơ mới cần mạnh mẽ hơn, táo bạo hơn nhưng quan trọng phải thuyết phục được công chúng về luận thuyết và sáng tác. Phan Khôi sau khi trình chánh Thơ mới chỉ lặng lẽ rút lui nhường trận tuyến cho thế hệ trẻ - Nguyễn Thị Kiêm hăng hái tranh biện nhưng thơ lại chưa mấy thuyết phục. Hồ Văn Hảo chỉ lặng lẽ sáng tác. Ở chặng đầu gian nan này, Thơ mới rất cần một vị chủ tướng dũng cảm và tài năng vừa để đối phó với sự phản ứng quyết liệt của phái cựu học vừa tiếp tục giương cao ngọn cờ Thơ mới. Trách nhiệm nặng nề ấy đã được nhận lãnh bởi một thi sĩ trẻ tâm huyết, đa tài: Thế Lữ.

1.2.2. Sự xuất hiện của Thế Lữ

Thế Lữ (1907 - 1989) sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ tại Hà Nội. Ông đã sớm theo đuổi nghề văn, nghề báo và trở thành cây bút chủ chốt của nhóm Tự lực văn đoàn. Sau bài tuyên ngôn chấn động của Phan Khôi - Thế Lữ là một trong những người hưởng ứng sớm nhất và có công đầu đưa Thơ mới đến sự toàn thắng.

Như chúng ta đã biết, Thơ mới vừa ra đời đã vấp phải sự bài xích của phái cựu học. Phản đối Thơ mới cũng không kém những người ủng hộ. Sau khi bài Tình già ra mắt, hăng hái như Phan Khôi và liều lĩnh như Lưu Trọng Lư cũng chỉ dám rụt rè hy vọng vào phong trào Thơ mới, dẫu thất bại thì đó là tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc triền miên trong cõi chết. Sau Tình già nhiều sáng tác lần lượt ra đời với ý tưởng trình tránh một lối thơ làm khuôn mẫu cho Thơ mới: Trên đường đời, Vắng khách thơ (Lưu Trọng Lư), Viếng Phòng thơ, Canh tàn, Mộng du (Nguyễn Thị Kiêm), Tự tình với trăng, Con nhà thất nghiệp (Hồ Văn Hảo)... Nhưng tất cả những ý tưởng, những khát vọng đó chưa khẳng định được sự thắng thế của Thơ mới mà "Thơ mới vẫn ở thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu" [23, 59].

Chỉ đến khi Thế Lữ xuất hiện trên thi đàn, Thơ mới mới tạm chấm dứt một cuộc khủng hoảng về thực tiễn sáng tác. Thế Lữ "không bàn về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảng khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ" (Thi nhân Việt Nam [34, 58]). Hoài Thanh đã coi sự lặng lẽ đó của Thế Lữ là sự bênh vực "không kèn không trống" nhưng lại hữu hiệu và "vững vàng" nhất cho Thơ mới.

Nếu Phan Khôi, Lưu Trọng Lư là những người khai chiến với Thơ cũ thì Thế Lữ là người giành thắng lợi đầu tiên cho Thơ mới. Thế Lữ phá thế cuộc giằng co dai dẳng và bế tắc. Thắng lợi đó biểu hiện trên cả bình diện lý thuyết và những sáng tác cụ thể.

Năm 1935 nhân bài phê bình tập thơ Những bông hoa cuối mùa của Thế Lữ đã lên tiếng bài xích thơ cũ, cho đó là thứ thơ bạc nhược, là sản phẩm nhợt nhạt, vô hình của một nền thơ đã mất hết sinh khí "Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình. Trong thơ các ông đầy dãy cảnh tuyết mai,

thông, cúc, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá" [17, 11].

Và để trả lời những người buộc tội Thơ mới bất chấp mọi luật lệ, Thế Lữ viết: "Các luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những người khúm núm thi thố các tiểu xảo của mình" (Phong Hoá số 148 tháng 5- 1935) Thế Lữ gọi những bài thơ ấy là lối thơ quen tai, nhàm chán như những lời chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.

Không chỉ có vậy, Thế Lữ tìm một hình thức mới để thể hiện một nội dung cảm hứng mới. Thế Lữ đường hoàng sử dụng điển tích, thi liệu, văn liệu cũ mà vẫn tự tin: Đấy là Thơ mới. Cảm quan mới, thi hứng mới đã chi phối thi liệu cũ. Đến Thế Lữ, người ta bớt đi sự câu nệ và tiểu tiết. Làng Thơ mới nhận ra rằng: Trên phương diện cảm hứng lẫn hình thức thể loại, Thơ mới kế thừa chứ không đứt đoạn với thơ truyền thống.

Cây đàn muôn điệu được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ thi nhân mới:

"Tôi chỉ là một khách tình si

Ham cái đẹp của muôn hình muôn vẻ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ

Và cây đàn ngàn phím tôi ca"

Thi nhân xưa có vai trò "đạo đức tư dân", giáo hoá, truyền thụ. Thi nhân nay sáng tạo theo cảm hứng của cái tôi, biểu hiện rung động của cái tôi trước cái đẹp. Cây đàn muôn điệu đánh dấu sự lên ngôi của con người nghệ sĩ trong thế giới hiện thực để tự do cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật. Con người được đặt ở trung tâm mọi sự cảm thụ.

Cây đàn muôn điệu tiêu biểu cho cảm hứng say mê của cái tôi lần đầu tiên được tự do cảm nhận. Cái tôi ấy đang bước đầu hành trình hăm hở khám phá thế giới, là chặng đầu tiên trên hành trình của cái tôi lãng mạn. Cây đàn

muôn điệu là minh chứng cho quan niệm nghệ thuật của phong trào Thơ mới. Đây là thắng lợi của Thơ mới trên phương diện lý luận. Lần đầu tiên, Thơ mới có một phác thảo đầy đủ về chân dung người nghệ sĩ, mục đích sáng tạo, phương thức sáng tạo. Trong quỹ đạo văn học hiện đại, thì Nhớ rừng là thắng lợi của Thơ mới trên phương diện cảm hứng. Với Nhớ rừng, cái bi tráng được khắc họa, không phải bằng khuôn khổ luật Đường đăng đối mà là thứ ngôn ngữ thơ sinh động từng bị các nhà nho cho là lủng ca lủng củng.

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm."

Trong lúc cũ - mới đáng giao thoa, ranh giới chưa được phân định rõ rệt thì bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ được coi như một đòn "dứt điểm", bài thơ là sự hoà quyện giữa hùng tráng và bi tráng, là nỗi căm phẫn đã đọng lại thành sức nặng giằng xé, xô đẩy trong lớp vỏ ngôn từ. Cảm hứng bi tráng tìm được hình dạng cho nó trong thể thơ tám chữ. Thể thơ tám chữ vốn chịu ảnh hưởng của hình thức hát nói. Sau Thế Lữ, những nhà thơ kế tiếp đã nâng thể thơ tám chữ này lên đến độ điêu luyện. Thơ tám chữ cũng là thể thơ chiếm ưu thế về số lượng trong các tập thơ của thi nhân trong phong trào Thơ mới.

Như vậy, sự xuất hiện của Thế Lữ trong những năm đầu của thế kỷ 30, khiến người ta hoàn toàn bị thuyết phục về quá trình hiện thực hoá ý tưởng Thơ mới. Sau Thế Lữ xuất hiện nhiều đỉnh cao của phong trào Thơ mới: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Những thi phẩm của họ là lời bênh vực hùng hồn nhất cho Thơ mới. Trên thực tế, từ sau Thế Lữ, tranh luận đã ngã ngũ. Hàng ngũ thơ xưa tan rã, thơ mới đã giành thắng lợi từ năm 1936. Lê Tràng Kiều vui mừng nhận xét: "Cuộc cách mạng bồng bột nay đã yên lăng như mặt nước hồ thu" và không phải ngẫu nhiên khi lưa chọn 45 thi sĩ với 167 bài để đưa vào tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí